Ông có vẻ ngoài hiền từ mà sáng rỡ, giống như một ông tiên. Với mái tóc bạc giống cước, với đôi tai vểnh rất đặc trưng. Nhìn đã thấy đẹp, nhìn đã thấy thông tuệ, khiến người đối diện ông phải nể trọng nhiều phần.
GS Phan Huy Lê là một trong tứ trụ của làng sử Việt Nam. Ảnh: Minh Đức/TTXVN |
Mà không chỉ có thế đâu, ẩn sau vẻ ngoài mẫn tiệp ấy, là một trí tuệ và một trái tim cũng rất mẫn tiệp. Ông, được gọi là một trong tứ trụ của làng sử Việt Nam, “Lâm, Lê, Tấn, Vượng” (Đinh Xuân Lâm, Phan Huy Lê, Hà Văn Tấn, Trần Quốc Vượng), có nhiều đóng góp lớn lao cho nền lịch sử nước nhà. Cũng từ ông, nhiều vấn đề của lịch sử đã được làm sáng rõ. Người trong giới bảo biết ơn ông vì điều đó.
GS Phan Huy Lê là hậu duệ đời thứ 14 của dòng họ Phan Huy, dòng họ nổi danh khoa bảng, với những tên tuổi lớn như Thượng thư - nhà ngoại giao Phan Huy Ích; Nhà bác học Phan Huy Chú, Thượng thư - nhà văn hóa Phan Huy Vịnh… Nhiều tên tuổi trong đó đã được đặt tên cho đường phố Hà Nội.
Ông sinh năm 1934, tại làng Thu Hoạch, xã Thạch Châu, huyện Thạch Hà (nay là huyện Lộc Hà), tỉnh Hà Tĩnh. Cụ thân sinh ra ông là Tiến sĩ Nho học Phan Huy Tùng, từng làm quan trong triều đình Huế, nổi tiếng là quan thanh liêm. Mẹ ông cũng thuộc dòng họ Cao Xuân giàu truyền thống khoa bảng, với các danh nhân như Cao Xuân Dục, Cao Xuân Tiếu, Cao Xuân Huy…
Năm 1952, ông đến Thanh Hóa học dự bị đại học. Nhận thấy cậu học trò này có năng lực đặc biệt về khoa học xã hội, GS Trần Văn Giàu và GS Đào Duy Anh đã hướng Phan Huy Lê vào học ban Sử - Địa. Năm 1956, Phan Huy Lê tốt nghiệp ĐH Sư phạm Hà Nội, chuyên ngành Lịch sử Việt Nam cổ trung đại.
Ngay sau khi tốt nghiệp đại học, ông được giữ lại làm trợ lý tập sự tại Khoa Lịch sử, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (nay là Đại học Quốc gia Hà Nội), dưới sự dẫn dắt của GS Đào Duy Anh. Chỉ hai năm sau, năm 1958, ông được bổ nhiệm làm Chủ nhiệm bộ môn Lịch sử Việt Nam cổ - trung đại tại trường và liên tục giữ trọng trách này hàng chục năm liền. Ngoài việc giảng dạy trong nước, ông còn tham gia giảng dạy cho nhiều trường đại học trên thế giới như Đại học Paris (Pháp), Đại học Amsterdam (Hà Lan)...
GS Phan Huy Lê và các nhà nghiên cứu thăm hiện tường khai quật khảo cổ học khu vực chính điện Kính Thiên. Ảnh: Đinh Thuận/ TTXVN |
Từ năm 1988 đến nay, ông liên tục là Chủ tịch Hội Khoa học lịch sử Việt Nam. Ngoài ra, ông còn là ủy viên của nhiều Hội đồng Quốc gia như Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển Bách khoa, Hội đồng Chính sách Khoa học và Công nghệ Quốc gia, Hội đồng Lý luận Trung ương, Hội đồng Khoa học và Đào tạo Đại học Quốc gia Hà Nội, Hội đồng Học hàm Nhà nước, Hội đồng Di sản Văn hóa Quốc gia...
Năm 1988, cũng chính GS là người sáng lập ra Trung tâm Trung tâm hợp tác nghiên cứu Việt Nam (thuộc Trường ĐH Tổng hợp Hà Nội), tiền thân của Trung tâm Nghiên cứu Việt Nam và Giao lưu văn hóa, sau này là Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển. Đến năm 1995, ông lại sáng lập Khoa Đông phương học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
GS cũng là tác giả của hàng trăm công trình nghiên cứu có giá trị về lịch sử, trong đó có những công trình nổi bật như “Chế độ ruộng đất và kinh tế nông nghiệp thời Lê Sơ”, “Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam”, “Khởi nghĩa Lam Sơn”, “Phong trào nông dân Tây Sơn”, “Lịch sử và văn hoá Việt Nam”, “Các giá trị truyền thống và con người Việt Nam hiện nay”, “Tìm về cội nguồn”, “Lịch sử Thăng Long – Hà Nội”…
GS.NGND Phan Huy Lê với công trình "Lịch sử và Văn hóa Việt Nam – Tiếp cận bộ phận". Ảnh: Minh Đức/TTXVN |
Năm 2000, ông đã được trao giải thưởng Nhà nước về khoa học – công nghệ với tác phẩm “Tìm về cội nguồn”. Năm 2016, công trình “Lịch sử và văn hóa Việt Nam - Tiếp cận bộ phận” của ông vừa được trao giải thưởng Hồ Chí Minh danh giá. Đây là công trình duy nhất trong lĩnh vực lịch sử được trao tặng giải thưởng trong đợt này.
Ngày 20/3/2017, ông Michel Zink, Giáo sư Học viện Kỹ nghệ Pháp và Thư ký trọn đời, Viện Hàn lâm Văn khắc và Mỹ văn Pháp, đã trao danh hiệu Viện sĩ Thôngtấn Viện Hàn lâm Văn khắc và Mỹ văn cho GS Phan Huy Lê, vinh danh ông vì sự nghiệp nghiên cứu khoa học xã hội và những đóng góp của giáo sư cho công cuộc bảo tồn di sản lịch sử và văn hóa của Việt Nam.
Công trình “ Vùng đất Nam Bộ - Quá trình hình thành và phát triển” do GS Phan Huy Lê chủ biên, nhà xuất bản Chính trị Quốc gia-Sự thật xuất bản, phát hành năm 2016, gồm hai tập tổng cộng hơn 1.500 trang.“Vùng đất Nam Bộ - Quá trình hình thành và phát triển” là công trình nghiên cứu thuộc thể loại lịch sử được Hội đồng nghiệm thu cấp Nhà nước nghiệm thu, đánh giá loại xuất sắc vào năm 2011. Công trình là báo cáo tổng quan rút gọn từ 11 đề tài, mỗi đề tài khoảng 500 trang đến 700 trang. Ảnh: Phương Vy/TTXVN |
Bộ sách được trao giải thưởng Khoa học Trần Văn Giàu năm 2017. |
Cả cuộc đời gắn bó với việc kiến tạo những căn nhà vững chắc cho ngành sử học Việt Nam, cả cuộc đời tâm huyết với những giá trị của quá khứ, GS Phan Huy Lê luôn nhận được sự nể trọng, yêu quý của học trò, đồng nghiệp, người trong giới. Chia sẻ cảm xúc về ông, là những dòng ngậm ngùi của những người học trò, đồng nghiệp khi ông đã lìa cõi trần về với cõi tiên vào ngày 23/6: “Vô cùng thương tiếc Giáo sư Phan Huy Lê, người thầy của chúng tôi trong những năm tháng chống Mỹ cứu nước 1964-1968 tại Khoa Sử Trường ĐHTH Hà Nội”, “Vĩnh biệt thầy - GS.NGND Phan Huy Lê, người khai sinh ra Trung tâm Nghiên cứu Việt Nam và Giao lưu Văn hoá, nay là Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển, ĐHQGHN. Thầy là hình tượng mẫu mực để chúng em noi theo”.
Ngày hôm nay, 27/6, trong một đám tang được tổ chức long trọng tại Nhà tang lễ số 5 Trần Thánh Tông, do gia đình và trường Đại học Quốc gia Hà Nội, Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam – những nơi ông gắn bó máu thịt, tổ chức; cây đại thụ của ngành sử Việt Nam đã chính thức được nghỉ ngơi. Nghỉ ngơi sau 85 năm canh cánh và cống hiến, nghỉ ngơi sau bao ngày chưa từng ngơi nghỉ, chưa từng hết đau đáu để bồi đắp cho pho sử nước nhà.
Ông là thế, một nhân cách phải khẳng định là rất lớn. Một nhân cách trong ngành, một nhân cách trong đời. Ngay những người hàng xóm của ông, ở khu nhà số 7 phố Vọng Đức, cũng chia sẻ rằng: Ông và gia đình là một tấm gương mẫu mực về nhân cách sống. Ba người con gái của ông đều là Tiến sĩ. Vợ ông, bà Hoàng Như Lan, cũng là một người phụ nữ tuyệt vời. Một người hàng xóm kể, bà Lan chỉ dạy con cháu hai điều trong đời: Trung thực và Nhường nhịn!
GS Phan Huy Lê được phong học hàm Giáo sư năm 1980, Nhà giáo Ưu tú (1988), Nhà giáo Nhân dân (1994); được tặng Huân chương Kháng chiến hạng Nhì (1985), Huân chương Lao động hạng Nhất (1998), hạng Nhì (1994), hạng Ba (1974); được tặng Giải thưởng Nhà nước (2000), Giải thưởng Quốc tế Văn hoá châu Á Fukuoka, Nhật Bản (1996), Huân chương Cành cọ Hàn lâm của Chính phủ Pháp (2002); được trao danh hiệu Công dân ưu tú của Thủ đô (2010), danh hiệu Viện sĩ Thông tấn nước ngoài của Học viện Pháp quốc (2011). |