Đại biểu Nguyễn Tri Thức, Đoàn ĐBQH TP Hồ Chí Minh. Ảnh: Doãn Tấn/TTXVN
Tại khoản 2, điều 8 dự thảo Luật Giáo dục đại học (sửa đổi) đã được tiếp thu cập nhật quy định “lĩnh vực khoa học sức khỏe cấp văn bằng theo quy định của Bộ Y tế”. Nhưng các nội dung liên quan đến quy định về văn bằng, chương trình đào tạo đang dự kiến sửa đổi ở Luật Giáo dục chưa đề cập đến vấn đề này.
Báo cáo giải trình, tiếp thu của Ban soạn thảo nêu ra các lý do chưa công nhận các văn bằng đào tạo sau đại học của lĩnh vực sức khỏe trong hệ thống văn bằng đào tạo quốc dân. Theo đó, các chương trình đào tạo dành cho người học sau khi tốt nghiệp đại học trong lĩnh vực khoa học sức khỏe… là đào tạo hành nghề. Các chương trình đào tạo chuyên khoa y tế không cấu trúc theo các chương trình đào tạo học thuật (môn học tiên quyết, môn học cốt lõi, kỹ năng nghiên cứu, sản phẩm nghiên cứu, đóng góp mới).
Đại biểu Trần Khánh Thu, Đoàn ĐBQH tỉnh Hưng Yên cho rằng, báo cáo giải trình, tiếp thu đưa ra là không công bằng với hệ thống đào tạo sau đại học lĩnh vực y tế. Việc đào tạo sau đại học thuộc lĩnh vực y tế chưa được coi là chương trình đào tạo học thuật để cấp văn bằng đào tạo lại vì chưa được quy định trong hệ thống giáo dục quốc dân.
Còn đại biểu Nguyễn Tri Thức, Đoàn ĐBQH TP Hồ Chí Minh lo ngại về nội dung trong Báo cáo số 2028 liên quan đến đào tạo bác sĩ chuyên khoa và bác sĩ nội trú. Việc đánh đồng các chương trình chuyên khoa I, chuyên khoa II và nội trú với đào tạo chứng chỉ hành nghề là sai lệch và không phản ánh đúng bản chất.
Đại biểu Nguyễn Tri Thức cho biết, sinh viên y khoa sau tốt nghiệp thường đi theo hai hướng: Hướng học thuật, giảng dạy tại các trường đại học, theo lộ trình thạc sĩ, tiến sĩ; Hướng lâm sàng, làm việc tại bệnh viện, theo các chương trình chuyên khoa I, II và nội trú.
"Lực lượng bác sĩ nội trú là tinh hoa của tinh hoa trong y khoa Việt Nam. Nhìn nhận bác sĩ chuyên khoa I, chuyên khoa II hay bác sĩ nội trú tương đương đào tạo chứng chỉ hành nghề là không chính xác. Đây là đội ngũ tinh hoa, được đào tạo chuyên sâu và gắn liền với môi trường bệnh viện", đại biểu Nguyễn Tri thức nói.
Đại biểu Nguyễn Tri thức cho rằng, nếu Bộ Giáo dục và Đào tạo tiếp tục là cơ quan cấp phép mở mã ngành, quản lý các trường y, còn Bộ Y tế lo đáp ứng nhu cầu nhân lực sẽ dẫn tới tình trạng Bộ Y tế không kiểm soát được và cũng không theo sát được. Vì vậy, Quốc hội xem xét quy định rõ trong luật: Bộ Y tế là cơ quan đầu mối chịu trách nhiệm quản lý Nhà nước đối với đào tạo chuyên sâu đặc thù sau đại học trong lĩnh vực khoa học sức khỏe, bao gồm hệ thống trường y, chương trình đào tạo và toàn bộ các nội dung liên quan đến giáo dục sức khỏe.
Ở khía cạnh khác, đại biểu Nguyễn Tri Thức cũng cho biết, trong báo cáo 2028, những góp ý của các đại biểu ngành y hầu như không được tiếp thu. Trên thực tế, việc mở ngành, cấp phép đào tạo trình độ đại học trong khối ngành sức khỏe tại các trường tư thục là do Bộ Giáo dục và Đào tạo quyết định, còn Bộ Y tế chỉ được cung cấp số liệu nhu cầu nhân lực. Mặt khác, Bộ Y tế không có quyền kiểm soát chất lượng đào tạo trong khi thực tế là những trường y tư nhân chưa đáp ứng yêu cầu đào tạo. Vì vậy, đại biểu đề nghị Quốc hội bổ sung vào dự thảo luật quy định: Bộ Y tế là cơ quan đầu mối chịu trách nhiệm quản lý nhà nước đối với đào tạo chuyên sâu, sau đại học trong lĩnh vực khoa học sức khỏe.
Đại biểu Nguyễn Hải Nam, ĐBQH TP Huế đồng tình giao khối ngành sức khỏe cho Bộ Y tế quản lý, với những lý do sau:
Thứ nhất, đào tạo y khoa liên quan trực tiếp đến tính mạng người bệnh. Bác sĩ, dược sĩ, điều dưỡng cần được đào tạo theo chuẩn hành nghề, quy trình chuyên môn và an toàn người bệnh - những nội dung hiện do Bộ Y tế ban hành và giám sát. Đào tạo y khoa bắt buộc phải gắn với bệnh viện và thực hành lâm sàng.
Thứ hai, mô hình này phù hợp với thông lệ quốc tế: Nhật Bản, Hàn Quốc đều giao quản lý đào tạo y cho Bộ Y tế; Anh, Đức dù cho phép trường đại học tự chủ, nhưng chuẩn năng lực và cấp phép hành nghề vẫn thuộc Bộ Y tế.
Thứ ba, Bộ Y tế là cơ quan duy nhất nắm rõ nhu cầu nhân lực, có thể dự báo thừa - thiếu bác sĩ từng chuyên khoa, điều dưỡng, kỹ thuật viên, từ đó xây dựng chỉ tiêu tuyển sinh phù hợp và tránh lãng phí nguồn lực.
Thứ tư, quản lý tập trung giúp tăng chất lượng đào tạo nhờ kết nối trực tiếp giữa trường y - bệnh viện - viện nghiên cứu, tránh đào tạo hàn lâm, xa rời thực tế lâm sàng.
Thứ năm, giảm nguy cơ thương mại hóa khi các trường mở rộng chỉ tiêu theo cơ chế tự chủ tài chính, có thể làm giảm chất lượng đào tạo.
Thứ sáu, ngành y đòi hỏi chuẩn đạo đức nghề nghiệp đặc thù. Bộ Y tế - với kinh nghiệm quản lý đội ngũ thầy thuốc - mới có thể xây dựng và giám sát hiệu quả các chuẩn mực này.
Thứ bảy, trong tình huống khẩn cấp như dịch bệnh, Bộ Y tế cần quyền điều phối nhân lực từ hệ thống đào tạo.
Do đó, một số đại biểu đề nghị Ban soạn thảo cân nhắc kỹ lưỡng để đảm bảo chất lượng nhân lực y tế trong tương lai.