Giấc mơ trở thành vựa lương thực thế giới của Indonesia

Theo báo Jakarta Post, hiện nay, tự cung tự cấp lương thực vẫn là một khát vọng hơn là thành tựu ở Indonesia.

Chú thích ảnh
Một quầy bán gạo tại chợ ở Jakarta, Indonesia. Ảnh: AFP/TTXVN

Điều này được thể hiện rõ qua việc nhập khẩu lương thực gia tăng đều đặn, chứng tỏ sự phụ thuộc liên tục của quốc gia Đông Nam A vào nguồn cung từ nước ngoài, qua đó gây nghi ngờ về bất kỳ triển vọng tự cung tự cấp lương thực trước mắt.

Theo số liệu của Cục Thống kê Indonesia (BPS), từ tháng 1-9 năm nay nước này đã nhập khẩu một lượng lớn lương thực chính bao gồm gạo, ngô, đậu tương và đường. Riêng lượng gạo nhập khẩu lên tới 3,23 triệu tấn, ngô (0,97 triệu tấn), đậu tương (2,16 triệu tấn) và đường (3,66 triệu tấn).

So với cùng kỳ năm ngoái, gạo nhập khẩu tăng vọt 80,68%, ngô tăng 44,97% và đậu tương tăng 15,64%. Những mức tăng mạnh này cho thấy Indonesia ngày càng phụ thuộc vào thực phẩm nhập khẩu. Thực tế đáng lo ngại hơn là sự phụ thuộc của nước này vào lúa mỳ, một loại cây lương thực không thể trồng trong nước.

Tính đến tháng 9/2024, Indonesia đã nhập khẩu khoảng 9,19 triệu tấn lúa mỳ, tăng 20,35% so với cùng kỳ năm ngoái. Sự phụ thuộc vào lúa mỳ nhập khẩu càng cho thấy tình trạng dễ bị tổn thương của quốc gia này trước nguy cơ gián đoạn nguồn cung toàn cầu và đe dọa đến an ninh lương thực. Lượng gạo nhập khẩu năm nay dự kiến sẽ đạt mức cao kỷ lục, một xu hướng trùng với sự sụt giảm mạnh về sản lượng gạo trong nước.

Theo dự báo gần đây của BPS, sản lượng gạo phục vụ nhu cầu lương thực sẽ giảm khoảng 757.134 tấn, tương đương 2,43% so với năm ngoái, đánh dấu năm thứ hai liên tiếp sụt giảm. Sự sụt giảm năm nay, nghiêm trọng hơn năm ngoái, phần lớn là do hiện tượng thời tiết El Niño. Năm 2023, sản lượng gạo giảm 439.237 tấn, tương đương 1,39%, so với năm 2022.

Sự gia tăng nhập khẩu thực phẩm phản ánh các vấn đề sâu sắc hơn về mặt cấu trúc trong hệ thống nông nghiệp của Indonesia, làm xói mòn khả năng đáp ứng nhu cầu lương thực của đất nước. Một vấn đề lớn là năng lực hạn chế của nông dân, những người phải đối mặt với nhiều thách thức như năng suất thấp, công cụ và kỹ thuật canh tác lạc hậu, tác động ngày càng trầm trọng của biến đổi khí hậu và khả năng tiếp cận hạn chế đối với đất đai, tín dụng, dịch vụ nông nghiệp và hỗ trợ của chính phủ.

Đánh giá năm 2021 của BPS cho thấy khoảng 89,54% đất nông nghiệp của Indonesia được coi là không bền vững do năng suất thấp. Do đó, phần lớn sự tăng trưởng về sản lượng nông nghiệp trong hai thập kỷ qua là do mở rộng diện tích đất canh tác, thay vì cải thiện năng suất.

Một nghiên cứu của các nhà kinh tế nông nghiệp còn phát hiện thêm rằng năng suất tổng hợp (TFP) trong ngành nông nghiệp Indonesia đã tăng trưởng âm trong hai thập kỷ qua. Chính sách điền trang lương thực của chính phủ, ưu tiên mở rộng hoặc mở rộng đất canh tác, vẫn là trọng tâm trong phát triển nông nghiệp của chính phủ mới. Tuy nhiên, vấn đề đất đai bị chia cắt đang ngày càng trở nên nghiêm trọng. Điều tra nông nghiệp năm 2023 (CA2023) cho thấy khoảng 68,1% nông dân Indonesia là những người sản xuất lương thực quy mô nhỏ với diện tích đất nông nghiệp hạn chế và ít gia súc.

Các hoạt động canh tác quy mô nhỏ hạn chế khả năng đảm bảo tín dụng tài chính và bảo hiểm nông nghiệp của nông dân, khiến họ dễ bị tổn thương trước những thảm họa không lường trước được như hạn hán và lũ lụt. Cuộc điều tra dân số cho thấy chỉ có 16,92% nông dân được tiếp cận chương trình tín dụng vi mô (KUR) của chính phủ và dưới 0,45% được bảo hiểm nông nghiệp. Điều này khiến phần lớn nông dân dễ bị tổn thất đáng kể khi xảy ra các điều kiện bất lợi.

Ngoài ra, dữ liệu CA2023 cho thấy sự hỗ trợ của thể chế đối với nông dân còn yếu. Chỉ có 27,4% trong số họ là thành viên của nhóm nông dân, hạn chế khả năng tiếp cận các chương trình hỗ trợ quan trọng của chính phủ.

Điều đáng lo ngại hơn là thiếu các cơ hội xây dựng năng lực. Chỉ có khoảng 5,88% nông dân được hưởng lợi từ các dịch vụ khuyến nông, vốn rất quan trọng đối với việc xây dựng năng lực nông nghiệp và chia sẻ kiến thức về các công nghệ mới và các phương pháp canh tác thích ứng với khí hậu.

Những xu hướng đáng lo ngại này đặt ra câu hỏi nghiêm trọng về tính khả thi của việc biến Indonesia thành nơi cung cấp thực phẩm toàn cầu. Nếu không có cải cách toàn diện và hỗ trợ mạnh mẽ hơn cho ngành nông nghiệp, mục tiêu tự cung tự cấp lương thực vẫn còn xa vời.

Theo bài viết trên báo Jakarta Post, ngoài việc mở rộng đất nông nghiệp, các chính sách trong tương lai của Indonesia cần tập trung vào việc nâng cao năng lực của nông dân. Các biện pháp chính phải bao gồm mở rộng và nâng cao hiệu quả của các chương trình hỗ trợ của chính phủ. Một cuộc cải tổ triệt để hệ thống dịch vụ khuyến nông là cần thiết để trang bị tốt hơn cho nông dân các kỹ năng và kiến thức.

Việc tăng cường các thể chế của nông dân và cung cấp nhiều khoản trợ cấp có mục tiêu hơn, có thể thông qua một chương trình trợ cấp trực tiếp, cũng nên được ưu tiên. Hơn nữa, các can thiệp chính sách phải dựa trên dữ liệu chính xác và cập nhật. Chính phủ có thể tối ưu hóa việc sử dụng Sổ đăng ký kinh tế xã hội và các phát hiện từ CA2023 bằng cách tích hợp các tập dữ liệu này để hướng dẫn các chính sách nông nghiệp hiệu quả và có mục tiêu hơn.

Nếu không có những thay đổi cơ bản này, giấc mơ trở thành kho lương thực của thế giới sẽ mãi chỉ là giấc mơ.

Đỗ Quyên (Pv TTXVN tại Jakarta)
Thị trường nông sản: Hai nhà xuất khẩu và nhập khẩu lớn có động thái mạnh
Thị trường nông sản: Hai nhà xuất khẩu và nhập khẩu lớn có động thái mạnh

Giá lúa gạo ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long tuần qua không có nhiều biến động. Song giá gạo Việt Nam xuất khẩu vẫn giảm nhẹ.

Chia sẻ:

doanh nghiệp - Sản phẩm - Dịch vụ Thông cáo báo chí Rao vặt

Các đơn vị thông tin của TTXVN