Các công ty Fintech hoạt động trong nhiều lĩnh vực khác nhau như thanh toán, chấm điểm tín dụng, quản lý tài chính cá nhân,... đặc biệt là cho vay ngang hàng (P2P Lending). Hình thức cho vay ngang hàng được các cơ quan chức năng kỳ vọng là giải pháp đáp ứng nhu cầu vay tiêu dùng của người dân, giúp kiểm soát tín dụng đen.
P2P Lending là hoạt động được thiết kế và xây dựng trên nền tảng ứng dụng công nghệ số để kết nối trực tiếp người đi vay với người cho vay (nhà đầu tư) mà không thông qua trung gian tài chính như tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
Theo đó, toàn bộ hoạt động vay, trả nợ (gốc, lãi) giữa người đi vay và người cho vay được nền tảng giao dịch trực tuyến của công ty vận hành nền tảng (công ty P2P Lending) ghi nhận và lưu trữ bằng các bản ghi điện tử, số hóa trên hệ thống cơ sở dữ liệu của công ty P2P Lending, được đăng tải cho khách hàng đăng ký tham gia nền tảng truy cập.
Ngân hàng Nhà nước cho biết, số lượng các công ty hoạt động trong lĩnh vực cho vay ngang hàng đã tăng nhanh chóng khoảng 100 công ty với nhiều công ty có vốn đầu tư nước ngoài như Tima, Vay mượn, MoneyBank, VnVon...
TS. Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia kinh tế cho rằng, doanh nghiệp P2P Lending đang hoạt động tại Việt Nam có thể tạm phân loại theo 4 cấp độ. Theo đó, bao gồm chỉ kết nối nhà đầu tư và bên vay; có thẩm định khả năng trả nợ hay hoàn vốn của bên vay; có quy định lãi suất, phí, thời gian vay, phương pháp trả nợ và các quy định khác liên quan đến nhà đầu tư và bên vay; công ty P2P Lending không những kết nối mà được ủy thác vốn và cho vay có giới hạn.
Theo Ngân hàng Nhà nước, về mặt lý thuyết hoạt động P2P Lending có thể góp phần hỗ trợ phổ cập tài chính, mở rộng khả năng và tạo thêm kênh tiếp cận nguồn lực tài chính, cách thức cho vay đối với nền kinh tế nhất là đối với các đối tượng yếu thế trong xã hội nhưng có khả năng tiếp cận internet; qua đó có thể góp phần đẩy lùi tình trạng “tín dụng đen”.
Tuy nhiên, Ngân hàng Nhà nước cũng phải thừa nhận, một số công ty lấy danh nghĩa mô hình P2P Lending lợi dụng sự thiếu kiến thức, hiểu biết của người dân để lừa bịp, gian dối, quảng cáo sai sự thật, hứa hẹn lợi nhuận cao, lãi suất cao. Từ đó lừa đảo, chiếm đoạt tiền vốn của người dân bỏ tiền đầu tư mô hình cho vay này hoặc lừa dối người vay về lãi suất “thấp”, điều kiện vay ưu đãi trong khi tính và áp dụng mức lãi suất thực tế cao “cắt cổ”.
Một số thỏa thuận giữa các bên tham gia trong mô hình P2P Lending (công ty P2P Lending và nhà đầu tư, công ty P2P Lending và bên thứ ba, công ty P2P Lending và khách hàng vay…) thiếu rõ ràng, minh bạch, thiếu ràng buộc có tính pháp lý, cũng như chưa có cơ chế giám sát, hậu kiểm đối với việc sử dụng, quản lý vốn vay đúng mục đích của người đi vay. Điều này có thể dẫn đến tranh chấp, khiếu kiện giữa các bên.
Đồng tình với quan điểm trên, TS. Nguyễn Trí Hiếu cho biết, thời gian qua hoạt động của các công ty này không ai kiểm soát, dẫn đến biến tướng như huy động vốn, cho vay nặng lãi như tín dụng đen.
Các chuyên gia kinh tế cho rằng, cần phải có một khung pháp lý để quản lý, tránh những tiềm ẩn rủi ro, hệ lụy tiêu cực trên một số phương diện như cạnh tranh công bằng, ổn định tài chính, an ninh mạng và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Do đó, trong dự thảo Nghị định quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát hoạt động công nghệ tài chính (Fintech) trong lĩnh vực ngân hàng đang được Ngân hàng Nhà nước lấy ý kiến, hình thức cho vay ngang hàng được cho tham gia cơ chế thử nghiệm .
Theo đó, Ngân hàng Nhà nước quy định, công ty cho vay ngang hàng trong quá trình tham gia cơ chế thử nghiệm không được cung cấp biện pháp bảo đảm tiền vay, cung cấp dịch vụ môi giới thông tin cho vay tiền phục vụ đầu tư cổ phiếu và các hoạt động rủi ro cao khác hoặc sử dụng trái phép nguồn tiền từ khách hàng.
Bên cạnh đó, nhân sự sáng lập, quản lý điều hành không được vay, cho vay và là bên bảo đảm hoặc bảo lãnh qua giải pháp fintech do mình vận hành, lợi dụng ưu thế quản lý, điều hành làm thay đổi các thông tin qua giải pháp fintech, thực hiện hành vi lừa đảo, gian lận, chiếm đoạt tài sản của khách hàng.
Dự thảo cũng nêu rõ, nhân sự quản lý, điều hành công ty cho vay ngang hàng cũng không được đồng thời là chủ sở hữu, nhân sự quản lý, điều hành của doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ tài chính, tín dụng, cầm đồ, kinh doanh đa cấp, chủ các dây hụi, họ hoặc đang làm trong lĩnh vực ngân hàng, kinh doanh các lĩnh vực liên quan đến trung gian thanh toán, ví điện tử.
Trong bản hồ sơ đăng ký tham gia cơ chế thử nghiệm gửi Ngân hàng Nhà nước, công ty fintech phải trình kế hoạch, phương án và triển khai các biện pháp phòng ngừa, quản lý và xử lý các rủi ro, quy định, quy trình về nhận biết, định danh khách hàng, quản lý tài khoản và thanh toán cho giao dịch của khách hàng thông qua tổ chức tín dụng, tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán đã được Ngân hàng Nhà nước cấp phép hoạt động.
Song, Ngân hàng Nhà nước cũng cho biết ngay cả khi áp dụng các chính sách, biện pháp trên, việc kiểm soát, triệt tiêu hoàn toàn các rủi ro xảy ra trong quá trình thử nghiệm là điều không thể. Do đó, trong quá trình tham gia thử nghiệm, các tổ chức thử nghiệm sẽ phải được theo dõi, giám sát, đánh giá một cách chặt chẽ bởi cơ quan quản lý nhà nước, qua đó kiểm soát được rủi ro phát sinh (nếu có), bảo vệ lợi ích của khách hàng tốt hơn, đồng thời tránh được tác động tiêu cực so với việc triển khai trên quy mô rộng, thời gian dài.
TS Cấn Văn Lực, chuyên gia kinh tế trưởng Ngân hàng BIDV, cho rằng việc cấp phép thử nghiệm cung cấp dịch vụ cho vay ngang hàng sẽ hạn chế được tình trạng lợi dụng mô hình này như cho vay áp dụng lãi suất và phí cao dẫn đến bên vay trốn tránh trả nợ khiến bên cho vay hoặc công ty P2P dùng mọi biện pháp kể cả thuê xã hội đen đòi nợ; lừa đảo diễn ra trong thời gian qua.
Theo TS Cấn Văn Lực, trong quá trình cấp phép thử nghiệm, cần xem xét bổ sung một số quy định như vốn điều lệ, giới hạn vốn huy động, yêu cầu các công ty P2P Lending lập quỹ dự phòng rủi ro
Ông Nguyễn Trí Hiếu cũng cho rằng khi thực hiện cơ chế thử nghiệm phải chọn lọc kỹ, các công ty tham gia lĩnh vực này phải là cho vay ngang hàng có thông tin chi tiết cụ thể như địa chỉ rõ ràng, có vốn điều lệ nhất định… tránh hoạt động như tổ chức tín dụng, áp lãi suất cao.
Thời gian qua, Ngân hàng Nhà nước vẫn khuyến cáo người dân, doanh nghiệp tìm hiểu kỹ, thận trọng khi tham gia các nền tảng cho vay ngang hàng trong bối cảnh chưa có hành lang pháp lý rõ ràng điều chỉnh đối với lĩnh vực này. Ngân hàng Nhà nước cũng khuyến nghị người dân tiếp cận vốn qua kênh tín dụng ngân hàng chính thống, tránh bị lừa đảo, rơi vào vòng xoáy cho vay nặng lãi của tín dụng đen.
Ngoài ra, Ngân hàng Nhà nước cũng chỉ đạo tổ chức tín dụng lưu ý về các rủi ro trong hoạt động cho vay ngang hàng; thận trọng trong ký kết và thực hiện các thỏa thuận hợp tác với các công ty cho vay ngang hàng, đảm bảo đúng quy định pháp luật, không ảnh hưởng đến hoạt động, uy tín cũng như an toàn của hệ thống ngân hàng.