Từ thuế quan thép, ô tô đến công nghệ xanh, chính quyền Trump đang tái định hình luật chơi thương mại, khiến EU buộc phải tìm cách bảo vệ lợi ích chiến lược (trong ảnh: Trụ sở Ủy ban châu Âu ở Brussels, Bỉ). Ảnh: IRNA/TTXVN
Bình luận trên tạp chí đối ngoại hàng đầu của Đức INTERNATIONALE POLITIK (IP - ip-quarterly.com/en) mới đây, Markus Jaeger, Giáo sư thỉnh giảng tại Đại học Columbia và là nghiên cứu viên cộng tác tại Trung tâm Địa chính trị, Địa kinh tế và Công nghệ của Hội đồng Quan hệ Đối ngoại Đức (DGAP) cho rằng, chính sách kinh tế của chính quyền Tổng thống Mỹ Donald Trump đang tạo ra một "chủ nghĩa bảo hộ cưỡng chế" mới, gây ra những tổn hại nghiêm trọng cho hệ thống thương mại quốc tế và đặt ra những thách thức đáng kể đối với Liên minh châu Âu (EU). EU cần chuẩn bị cho sự bất ổn tiếp diễn trong quan hệ thương mại xuyên Đại Tây Dương và củng cố các chính sách răn đe địa kinh tế của mình.
Thay đổi lớn nhất
Sự chuyển dịch chính sách thương mại sang “chủ nghĩa bảo hộ cưỡng chế” là thay đổi đáng kể nhất trong chính sách kinh tế của Mỹ dưới thời chính quyền Trump 2.0. Chính sách này dựa trên việc sử dụng các biện pháp bảo hộ và đe dọa để lợi dụng sự phụ thuộc thương mại của các nước khác nhằm giành được nhượng bộ về kinh tế và chính trị.
Mức thuế quan thực tế trung bình đối với hàng nhập khẩu vào Mỹ đã tăng từ 2% lên gần 18%, mức cao nhất kể từ sau Đạo luật Smoot-Hawley khét tiếng những năm 1930. Chính quyền đã áp đặt thuế quan theo ngành (ví dụ: thép, ô tô, đồng, dược phẩm) và công bố cái gọi là thuế quan đối ứng với mức thuế "cơ sở" 10% áp dụng cho hầu hết các quốc gia, bên cạnh mức thuế cụ thể theo quốc gia phản ánh cán cân thương mại hàng hóa song phương.
Sự thiếu phối hợp và tính đột phá trong việc xây dựng và thực thi chính sách, vốn bị chi phối bởi "ý thích cá nhân của tổng thống" hơn là một quy trình liên ngành, đang góp phần gây bất ổn cho chế độ thương mại quốc tế. Chính sách thương mại của Mỹ theo đuổi nhiều mục tiêu không phải lúc nào cũng nhất quán, trong đó mối quan tâm đặc biệt là thâm hụt thương mại lớn của Mỹ.
Về giảm thâm hụt thương mại: Mặc dù "thuế quan đối ứng" được thiết kế nhằm giảm thâm hụt thương mại tổng thể, nhiều nghiên cứu cho thấy tác động của thuế quan lên thâm hụt thương mại là rất nhỏ.
Về thúc đẩy sản xuất và việc làm: Chính quyền Trump cũng biện minh cho thuế quan là biện pháp để tăng cường đầu tư trong nước và việc làm trong ngành công nghiệp. Tuy nhiên, các công ty (cả trong nước và nước ngoài) vẫn ngần ngại đầu tư số tiền lớn do chưa chắc chắn liệu thuế quan có được duy trì trong trung và dài hạn hay không.
Hơn nữa, việc làm trong ngành sản xuất đã suy giảm trong nhiều thập kỷ ở các nền kinh tế tiên tiến. Ngành sản xuất công nghiệp cạnh tranh cao ở Mỹ hiện nay là thâm dụng vốn chứ không phải thâm dụng lao động. Do đó, lợi ích việc làm từ thuế quan cao hơn được dự đoán là không đáng kể hoặc thậm chí là âm.
Về tăng thu ngân sách và an ninh quốc gia: Mục tiêu tăng thu ngân sách của chính phủ Mỹ là lý do duy nhất có bằng chứng rõ ràng. Văn phòng Ngân sách Quốc hội Mỹ ước tính rằng trong thập kỷ tới, mức thuế quan cao hơn (sau khi điều chỉnh) sẽ làm giảm thâm hụt ngân sách tích lũy của Mỹ từ 3,3 nghìn tỷ USD đến 4 nghìn tỷ USD.
Ngoài ra, an ninh quốc gia thường được viện dẫn để áp đặt các hạn chế theo ngành (ví dụ: chất bán dẫn, đất hiếm). Mặc dù các hạn chế này có thể giúp giảm bớt sự phụ thuộc vào nhập khẩu và tăng cường an ninh nguồn cung dài hạn, nhưng chúng cũng làm tăng chi phí và cần thời gian để phát triển năng lực sản xuất trong nước.
Căng thẳng xuyên Đại Tây Dương và bài học răn đe
Quan hệ thương mại EU - Mỹ đang đối mặt với những thách thức lớn. Ngoài việc tăng thuế theo ngành (ví dụ: thép và ô tô), chính phủ Mỹ ban đầu đã áp dụng mức thuế 30% đối với hàng nhập khẩu từ EU trong bối cảnh "thuế quan đối ứng", sau đó được tạm dừng để tạo điều kiện cho các cuộc đàm phán song phương. Mặc dù EU đã chuẩn bị các mức thuế trả đũa để đáp trả các mức thuế theo ngành và "thuế quan đối ứng", nhưng họ đã kiềm chế không áp dụng chúng để không gây nguy hiểm cho các cuộc đàm phán.
EU cũng kiềm chế không kích hoạt công cụ chống cưỡng chế mới được thiết lập của mình, công cụ này sẽ cho phép áp dụng nhiều biện pháp trả đũa kinh tế hơn. Ví dụ, khả năng đe dọa hạn chế xuất khẩu dịch vụ của Mỹ sang EU sẽ củng cố vị thế mặc cả của Brussel, một phần vì Mỹ là nước xuất khẩu dịch vụ lớn sang EU. Thặng dư thương mại dịch vụ của Mỹ với EU gần bằng thặng dư thương mại hàng hóa của EU với Mỹ.
Phải thừa nhận rằng, mối đe dọa trả đũa có thể nhanh chóng dẫn đến sự leo thang không mong muốn. Nhưng một chính sách răn đe địa kinh tế thành công có thể là một công cụ rất hiệu quả để tránh các xung đột thương mại tốn kém hoặc ít nhất là đạt được thỏa thuận về các điều khoản thuận lợi hơn. Tuy nhiên, EU đã không sẵn sàng chấp nhận đủ rủi ro trong các cuộc đàm phán với chính quyền Trump.
Ví dụ, Trung Quốc đã không ngần ngại trả đũa việc Mỹ tăng thuế. Khi mức thuế quan tương ứng đã tăng lên hơn 100%, Washington đã đồng ý hạ nhiệt căng thẳng và tìm kiếm một giải pháp thông qua đàm phán. Việc Bắc Kinh sẵn sàng hạn chế xuất khẩu các nguyên liệu thô thiết yếu đã đóng góp như thế nào vào việc hạ nhiệt căng thẳng vẫn còn là một câu hỏi bỏ ngỏ. Tuy nhiên, thực tế là chính quyền Trump đã phản ứng trước các biện pháp trả đũa gây tốn kém. Washington cũng đã tạm dừng "thuế quan đáp trả" vào tháng 4 năm nay sau khi thông báo của họ gây ra biến động đáng kể trên thị trường tài chính, cho thấy chính quyền Trump không hề thờ ơ với những tổn thất kinh tế và tài chính ngày càng tăng của các cuộc chiến thương mại.
Đến cuối tháng 7 vừa qua, Brussels và Washington đã ký kết một thỏa thuận thương mại "chính trị", nhưng vẫn chưa có hiệu lực ràng buộc pháp lý. Theo thỏa thuận, Mỹ sẽ áp dụng mức thuế tối đa 15% đối với hàng nhập khẩu từ EU, bao gồm cả ô tô và phụ tùng ô tô. Mức thuế này cũng sẽ được áp dụng cho các mức thuế trong tương lai đối với dược phẩm và chất bán dẫn. Thuế quan đối với nhiều mặt hàng khác, bao gồm máy bay và phụ tùng máy bay, sẽ được hạ xuống mức trước đó. Hạn ngạch của Mỹ đối với thép nhập khẩu từ EU cũng sẽ được khôi phục về "mức lịch sử".
EU cũng đã cam kết đầu tư 600 tỷ USD vào nền kinh tế Mỹ và nhập khẩu 750 tỷ USD năng lượng, mặc dù vẫn chưa rõ chính xác EU sẽ thực hiện những cam kết này như thế nào. Ngoài ra, tất cả các mức thuế quan của EU đối với hàng hóa công nghiệp nhập khẩu từ Mỹ sẽ được bãi bỏ. Cả hai bên cũng cam kết giảm các rào cản thương mại phi thuế quan. Tuy nhiên, vẫn còn những khác biệt đáng kể giữa hai bên về ý nghĩa thực tế của điều này, điều này có thể dẫn đến thêm tranh chấp và bất ổn trong quan hệ thương mại song phương, bao gồm cả về thuế kỹ thuật số, các quy định xanh của EU và cách EU đối xử với các công ty công nghệ Mỹ.
Trong bối cảnh đói, Giáo sư Jaeger đề xuất EU nên đẩy nhanh nỗ lực tăng cường an ninh kinh tế thông qua đa dạng hóa xuất khẩu và giảm thiểu các điểm yếu liên quan đến nhập khẩu. Do chính sách thương mại của Mỹ tập trung mạnh vào giao dịch và dựa trên chủ nghĩa bảo hộ cưỡng chế, EU không nên đánh giá quá cao thiện chí của chính quyền Mỹ hiện tại trong việc đạt được các thỏa thuận đáng tin cậy và lâu dài.