Hàng triệu người Mỹ tìm cách giữ cho được việc làm giữa thời đại dịch COVID-19 đã phải chứng kiến thu nhập giảm sút khi giới chủ cắt giảm tiền công lao động và giờ làm để đối phó với viễn cảnh đóng cửa ngắn hạn đã được dự báo trước.
Giờ đây, khi virus SARS-CoV-2 lan tràn và suy thoái kinh tế diễn ra sâu hơn, cắt giảm này đồng nghĩa với việc thất nghiệp tạm thời có thể chuyển sang thất nghiệp vĩnh viễn, thậm chí nó còn mở đường cho việc sa thải mới. Điều đó gây ra những tác động lớn hơn với thị trường lao động và nền kinh tế, bởi số người giữ được việc làm những giảm chi tiêu ít đang ít hơn vài tháng trước đây.
Con số này không nhận được sự quan tâm bằng số người thất nghiệp được chính phủ Mỹ công bố hàng tuần. Nhưng theo nghiên cứu của Ngân hàng Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) và Đại học Chicago, ít nhất 4 triệu công nhân Mỹ đã bị cắt giảm tiền công lao động kể từ tháng 2 dù họ vẫn làm công việc đó. Hàng triệu người khác cũng đang trong tình trạng bị “nợ lương”.
Nhiều ước tính khác còn cho kết quả tệ hơn. Khoảng 7 triệu công nhân có thể đã bị giảm lương - Mark Zandi, nhà kinh tế trưởng tại Moody’s Analytics nhìn nhận. Tính cả số bị cắt giảm giờ làm, số lượng người bị giảm lương, thu nhập lên tới 20 triệu người – nói cách khác cứ 8 người đi làm thì có 1 người có thu nhập giảm đi trong vài tháng qua, dù không thất nghiệp. Nó cho thấy việc đóng cửa có tác động ghê ghớm, không chỉ dừng ở việc có bao nhiêu người bị sa thải.
Theo Cameron Claudia Sahm, Giám đốc chính sách kinh tế vĩ mô tại Trung tâm tăng trưởng công bằng Washington, nước Mỹ đang trải qua một cuộc khủng hoảng thu nhập thậm chí còn lớn hơn cả cuộc khủng hoảng thất nghiệp. Cựu chuyên gia từng làm việc tại FED nhìn nhận giảm thu nhập của người lao động – mà ông gọi là "khủng hoảng thu nhập" là vấn đề lớn. "Rất nhiều việc làm bị mất. Giờ làm việc cũng bị cắt, giờ làm thêm không còn. Và kết cục là phần lớn người lao động đang bị giảm tiền lương", ông nói.
Đáng chú ý, mức cắt giảm này đánh mạnh vào số lao động thu nhập cao - đối tượng thường có xu hướng đề kháng tố trước tác động của suy giảm tăng trưởng kinh tế. Theo nghiên cứu của công ty dữ liệu tiền ADP, 75% người bị cắt giảm lương, thu nhập rơi vào số 40% người lao động thu nhập cao, “công nhân cổ trắng”. Còn những người ở nhóm thu nhập thấp hơn bắt buộc phải cắt giảm chi tiêu, làm khủng hoảng trầm trọng thêm.
Xu hướng cũng cho thấy người lao động không có lựa chọn nào tốt hơn ngoài chấp nhận mức lương, tiền công lao động thấp hơn dù vẫn làm công việc cũ. Khảo sát của FED chi nhánh New York cho thấy, người Mỹ cho rằng họ có ít hơn 50% cơ hội tìm được việc làm mới trong 3 tháng nếu thất nghiệp tại thời điểm này.
"Tốc độ phục hồi thực sự phụ thuộc vào thái độ người tiêu dùng. Và nếu mọi người không có tiền thì họ sẽ không tiêu tiền", ông Jane Oates, cựu quan chức của Bộ Lao động, hiện là chủ tịch của tổ chức phi lợi nhuận WorkingNation nhận định.
Các nhà kinh tế cảnh báo thời gian đóng cửa càng kéo dài và nền kinh tế chậm lại, nhiều khả năng cắt giảm lương tạm thời sẽ biến thành vĩnh viễn hoặc dẫn đến làn sóng sa thải mới. Theo ông Zandi, nếu các công ty viện đến việc giảm lương như một vấn đề sống còn, điều tiếp theo sẽ là cắt giảm việc làm vì không còn lựa chọn khác.
Và một số công ty lớn nhất đã làm vậy. Julia Coronado, cựu chuyên gia kinh tế của Fed, người sáng lập công ty Macropolicy Perspectives chuyên theo dõi các công ty có trụ sở tại Mỹ với mức vốn hóa lớn hơn 1 tỷ USD, cho biết 42% trong số 260 công ty đã cung cấp thông tin về giảm lương nhân viên giai đoạn từ tháng 4-7/2020. Lyft giảm lương ba tháng với mọi nhân viên, mức giảm từ 10 đến 30%. Các đại gia bán lẻ như Best Buy và Gap tập trung cắt giảm thu nhập vào giới lãnh đạo điều hành.
Diane Swonk, nhà kinh tế trưởng tại Grant Thornton nhìn nhận, lúc đầu phong tỏa, mọi người sẵn sàng chấp nhận cắt giảm lương vì nghĩ mọi chuyện chỉ là tạm thời. Nhưng dữ liệu mới nhất hiện cho thấy suy thoái có khả năng sâu hơn và kéo dài hơn nhiều so với dự báo, khi các trường hợp lây nhiễm đạt mức cao kỷ lục và phần lớn các bang đã tạm dừng hoặc đảo ngược kế hoạch mở cửa trở lại.
"Tại thời điểm này, chúng tôi lo ngại rằng một số đợt cắt giảm lương tạm thời có thể trở thành vĩnh viễn hoặc biến thành những vụ sa thải lớn", bà Diane Swonk chia sẻ.