TP Hồ Chí Minh mới: Phát triển cảng biển thành trung tâm hàng hải quốc tế (Bài cuối)

TP Hồ Chí Minh đang xây dựng chiến lược phát triển hệ thống cảng biển nước sâu theo mô hình “siêu trung tâm” hàng hải gắn với logistics và tài chính quốc tế. Mục tiêu là đưa Thành phố trở thành cửa ngõ thương mại toàn cầu, không chỉ mạnh về xếp dỡ hàng hóa mà còn trở thành trung tâm dịch vụ hàng hải – logistics – tài chính hàng đầu Đông Nam Á.

Chú thích ảnh
Việc hình thành hệ sinh thái dịch vụ hàng hải - tài chính sẽ góp phần trực tiếp củng cố Trung tâm Tài chính quốc tế phát triển.

Liên thông để tạo tiềm lực mới cho trung tâm hàng hải 

TP Hồ Chí Minh, với lợi thế “đầu mối” của cụm cảng nước sâu Cái Mép – Thị Vải và hệ thống 89 bến cảng sau sáp nhập, đang đứng trước cơ hội bứt phá để trở thành trung tâm hàng hải tầm cỡ quốc tế.

Chiến lược phát triển cảng biển của Thành phố không chỉ dừng ở hoạt động xếp dỡ truyền thống, mà còn mở rộng sang chuỗi dịch vụ giá trị gia tăng như tiếp nhiên liệu, cung ứng tàu, bảo dưỡng kỹ thuật, tài chính – bảo hiểm hàng hải, logistics lạnh, ICD và phân phối đô thị. Việc hình thành hệ sinh thái dịch vụ hàng hải – tài chính này sẽ góp phần trực tiếp củng cố Trung tâm Tài chính quốc tế TP Hồ Chí Minh trong tương lai.

Sau khi sáp nhập với Bình Dương và Bà Rịa – Vũng Tàu, TP Hồ Chí Minh trở thành đô thị đặc biệt có đường bờ biển liên hoàn kéo dài từ Cần Giờ – Vũng Tàu – Hồ Tràm – Côn Đảo. Không gian biển rộng mở tạo lợi thế hiếm có để phát triển kinh tế biển toàn diện, trong đó Thành phố xác định ba lĩnh vực trọng tâm: Kinh tế hàng hải và logistics, dầu khí – năng lượng – năng lượng tái tạo, du lịch – đô thị biển.

Trong ba trụ cột này, kinh tế hàng hải và logistics được xem là “động cơ tăng trưởng” khi Thành phố định hướng hình thành cụm cảng – logistics thông minh Cái Mép – Thị Vải – Cần Giờ, theo mô hình siêu cảng số vận hành trên nền tảng dữ liệu lớn (Big Data) và trung tâm điều phối số. Mục tiêu là xây dựng trung tâm logistics biển hàng đầu Đông Nam Á, kết nối trực tiếp với chuỗi cung ứng toàn cầu.

Hiện nay, logistics chiếm 10 – 15% GRDP của TP Hồ Chí Minh, nhưng dư địa phát triển còn rất lớn. Khoảng 70% hàng hóa từ Cái Mép – Thị Vải đang được đưa về Thành phố bằng đường thủy, góp phần giảm áp lực đường bộ và mở ra cơ hội thiết lập các khu hậu cần sau cảng dọc sông Sài Gòn – sông Đồng Nai.

Các địa bàn như Củ Chi, Dầu Tiếng, An Tây có khả năng tiếp nhận sà lan trên 100 TEU, trở thành “bến sau” kết nối trực tiếp với khu công nghiệp – khu chế xuất – trung tâm phân phối đô thị.
Nếu được khai thác hiệu quả, khu vực này có thể hình thành chuỗi vận tải thủy – đường sắt – đường bộ liên thông, giúp giảm chi phí logistics và nâng cao năng lực cạnh tranh hàng hóa.

Trên bình diện khu vực, Sihanoukville (Campuchia) hiện chỉ tiếp nhận tàu dưới 50.000 tấn, phần lớn hàng vẫn trung chuyển qua Singapore hoặc Laem Chabang (Thái Lan) với sản lượng khoảng 2 triệu TEU/năm.

Nếu TP Hồ Chí Minh thiết kế được tuyến trung chuyển tối ưu và liên thông dịch vụ cảng trong cụm Cái Mép – Thị Vải, Thành phố hoàn toàn có thể thu hút hàng quá cảnh của tiểu vùng Mekong, rút ngắn hành trình tới Mỹ – châu Âu và tăng sức hút quốc tế.

Ông Vũ Ninh, thành viên Hội đồng quản trị Gemadept cho rằng, cần kết nối toàn bộ bến cảng trong cụm Cái Mép – Thị Vải thành một mạng cảng liên thông dùng chung hạ tầng, dữ liệu và dịch vụ, thay vì vận hành rời rạc theo từng chủ đầu tư. Cùng với đó, phải “nâng cấp sản phẩm cảng biển” từ dịch vụ xếp dỡ sang bộ dịch vụ hoàn chỉnh gồm: cấp nhiên liệu (bunkering), cung ứng tàu (ship supply), sửa chữa nổi, bảo hiểm hàng hải và tài chính thương mại.

Ông Vũ Ninh chia sẻ: “Mỗi tháng có hơn 100 siêu tàu cập khu vực Cái Mép – Thị Vải. Nếu toàn bộ dịch vụ hậu cần tàu biển được thực hiện ngay tại TP Hồ Chí Minh, doanh thu dịch vụ sẽ vượt xa doanh thu xếp dỡ”.

Theo ông Ninh, để làm được điều đó, TP Hồ Chí Minh cần một đầu mối điều phối thống nhất, quản lý lịch tàu, hạ tầng, dịch vụ và chuẩn dữ liệu, đồng thời xây dựng nền tảng cảng thông minh kết nối hãng tàu – hải quan – kho bãi – ICD – vận tải nội địa, cho phép đặt lịch, chia slot, chia sẻ container rỗng và khai báo một lần. Cách tiếp cận này sẽ giúp rút ngắn thời gian quay vòng, hạ chi phí logistics, tăng khả năng dự báo toàn chuỗi, qua đó tạo lợi thế cạnh tranh dài hạn.

Định vị vai trò “siêu trung tâm” hàng hải khu vực

Theo định hướng của UBND TP Hồ Chí Minh, phát triển cảng nước sâu sẽ dựa trên ba trụ cột chính: hạ tầng đa phương thức – thể chế đột phá – công nghệ và xanh hóa.

Thứ nhất, hạ tầng đa phương thức. Thành phố ưu tiên hoàn thiện các tuyến giao thông trục kết nối cảng – khu công nghiệp – sân bay, gồm Vành đai 3, Vành đai 4 và các tuyến cao tốc liên vùng; đồng thời nâng cấp, nạo vét luồng sông để tiếp nhận sà lan trọng tải lớn và phát triển tuyến đường sắt hàng hóa TP Hồ Chí Minh – Cái Mép – Bàu Bàng – Cần Thơ.

Song song đó, Thành phố sẽ quy hoạch các cảng cạn (ICD), trung tâm logistics lạnh và trung tâm phân phối bám theo vành đai, hình thành “vành đai hậu cần sau cảng”, giúp rút ngắn thời gian lưu thông và giảm chi phí vận tải.

Thứ hai, thể chế đột phá. TP Hồ Chí Minh nghiên cứu áp dụng mô hình “một cửa – một lần khai” cho toàn bộ thủ tục cảng biển, hải quan và kiểm dịch; đồng thời xây dựng cơ chế sandbox cho dịch vụ tài chính – bảo hiểm hàng hải – tiếp nhiên liệu, cùng chính sách ưu đãi nhân lực logistics và cơ chế PPP trong đầu tư hạ tầng cảng.

Đặc biệt, việc hình thành khu thương mại tự do (FTZ) tại cảng trung tâm được kỳ vọng sẽ thúc đẩy các dịch vụ giá trị gia tăng như phân loại, đóng gói, dán nhãn, kiểm định, tương tự mô hình Shanghai Free Trade Zone (Trung Quốc).

Thứ ba, công nghệ và xanh hóa. Thành phố đẩy mạnh xây dựng hệ sinh thái cảng thông minh, ứng dụng IoT, RFID, camera AI và nền tảng điều độ số; triển khai dự báo tắc nghẽn bằng học máy, tối ưu vận tải sà lan và container rỗng.

Cùng với đó, phát triển hạ tầng nhiên liệu sạch (LNG), trạm sạc cho xe điện, thí điểm xe đầu kéo điện, và nghiên cứu thu giữ – lưu trữ CO₂ theo mô hình Rotterdam (Hà Lan). “Xanh hóa” được xác định là lợi thế cạnh tranh dài hạn, giúp Thành phố tiếp cận hiệu quả các chuỗi cung ứng “carbon thấp” và khẳng định vị thế trung tâm hàng hải xanh của khu vực.

Chú thích ảnh
TP Hồ Chí Minh với lợi thế “đầu mối” của cụm cảng nước sâu Cái Mép – Thị Vải và hệ thống 89 bến cảng sau sáp nhập .

Ở tầm chiến lược, ông Nguyễn Văn Dũng, Phó Chủ tịch UBND TP Hồ Chí Minh cho biết, Thành phố sẽ xây dựng Đề án Trung tâm Hàng hải thế giới đặt tại TP Hồ Chí Minh, với sự tham gia của doanh nghiệp đầu ngành như Gemadept, Tân Cảng Sài Gòn và các đối tác quốc tế. Khi liên thông cụm cảng, mở rộng dịch vụ giá trị cao, hoàn thiện “vành đai hậu cần sau cảng”, TP Hồ Chí Minh sẽ củng cố vai trò cửa ngõ thương mại và trung tâm hàng hải tài chính của khu vực.

Trong khi đó, PGS.TS Trần Hoàng Ngân, Thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính – tiền tệ quốc gia cho biết, khi kinh tế cảng biển phát triển sẽ kéo theo thị trường hàng hóa và thanh toán quốc tế phát triển, tạo nền tảng để TP Hồ Chí Minh trở thành trung tâm tài chính quốc tế gắn với cảng biển.

Tuy nhiên, để thực hiện mục tiêu này, nguồn lực tài chính là then chốt. Thành phố cần khoảng 1 triệu tỉ đồng vốn đầu tư mỗi năm, trong đó hạ tầng chiếm một nửa. Ngân sách chỉ đáp ứng khoảng 200.000 tỉ đồng giai đoạn 2026 – 2030, phần còn lại phải huy động từ tư nhân, FDI và nguồn lực đất đai. Thành phố đang đề xuất sửa đổi Nghị quyết 98 để hoàn thiện cơ chế thu hút nhà đầu tư chiến lược, đặc biệt vào siêu cảng – khu FTZ Cái Mép Hạ và hệ sinh thái dịch vụ hàng hải – logistics – năng lượng.

Bài, ảnh: Hoàng Tuyết - Huyền Trân/Báo Tin tức và Dân tộc
Chấm dứt hoạt động Ban chỉ đạo di dời cảng biển sông Sài Gòn và nhà máy Ba Son
Chấm dứt hoạt động Ban chỉ đạo di dời cảng biển sông Sài Gòn và nhà máy Ba Son

Thủ tướng Chính phủ vừa ban hành Quyết định số 2271/QĐ-TTg về việc giải thể Ban chỉ đạo thực hiện Quy hoạch di dời các cảng biển trên sông Sài Gòn và Nhà máy đóng tàu Ba Son.

Chia sẻ:

doanh nghiệp - Sản phẩm - Dịch vụ

Các đơn vị thông tin của TTXVN