Tại An Giang, theo cập nhật của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh, giá các loại lúa hầu hết vẫn giữ ổn định như: Đài thơm 8 từ 9.400 – 9.600 đồng/kg, OM 18 cũng ở mức từ 9.400 – 9.600 đồng/kg, nàng Hoa 9 giá từ 9.500 – 9.600 đồng/kg, IR 50404 từ 8.900 – 9.100 đồng/kg, lúa Nhật ổn định từ 7.800 - 8.000 đồng/kg; riêng OM 5451 từ 9.300 – 9.500 đồng/kg, giảm 100 đồng/kg.
Với mặt hàng gạo trên thị trường bán lẻ tại An Giang, gạo thường có giá từ 15.000 – 17.000 đồng/kg; gạo thơm thái hạt dài từ 19.000-20.000 đồng/kg; gạo Jasmine từ 17.500 – 18.500 đồng/kg; gạo trắng thông dụng 17.000 đồng/kg, gạo Nàng Hoa 19.500 đồng/kg…
Nhiều doanh nghiệp tại An Giang đang đẩy mạnh liên kết sản xuất với nông dân, hợp tác xã để xây dựng vùng nguyên liệu, đáp ứng đơn hàng xuất khẩu trong năm 2024.
Năm 2024, tại An Giang có khoảng 30 doanh nghiệp có kế hoạch thực hiện liên kết sản xuất, tiêu thụ lúa, nếp cho nông dân với diện tích 430.989 ha, tăng rất mạnh so năm 2023 (năm 2023 diện tích liên kết hơn 110.000 ha); trong đó, vụ Đông Xuân liên kết sản xuất và tiêu thụ gần 144.200 ha, Hè Thu 147.540 ha và Thu Đông 139.260 ha.
Hiện nay, nông dân Sóc Trăng đang chủ động đẩy nhanh tiến độ xuống giống vụ lúa Đông - Xuân 2023 - 2024 nhằm ứng phó với nước mặn xâm nhập ở cuối vụ. Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Sóc Trăng, năm nay vụ lúa Đông - Xuân xuống giống sớm từ 20 - 30 ngày so với cùng kỳ năm trước.
Đến nay tỉnh Sóc Trăng đã gieo sạ trên 125.792 ha trong tổng số 171.000 ha, đạt trên 75% diện tích, cơ cấu giống lúa chủ yếu gồm: OM18, Đài thơm 8, OM5451, nhóm giống ST...
Về xuất khẩu, giá gạo 5% tấm của Việt Nam được chào bán ở mức từ 660 - 665 USD/tấn trong phiên 21/12, mức cao nhất kể từ giữa tháng 7/2008, so với mức từ 655 - 660 USD/tấn trong tuần trước.
Một nhà giao dịch tại Tp. Hồ Chí Minh cho biết nguồn cung khan hiếm đã khiến giá gạo tăng cao. Cùng với đó, giá gạo xuất khẩu của Ấn Độ đi lên cùng với xu hướng tăng tại các nước xuất khẩu gạo khác và những lo ngại về sản lượng.
Giá gạo đồ 5% tấm của Ấn Độ được chào bán ở mức từ 505 - 512 USD/tấn trong tuần này, mức cao nhất trong hai tháng, tăng so với mức từ 499 - 506 USD/tấn trong tuần trước.
Một nhà xuất khẩu ở thành phố phía đông Kolkata cho biết, do khoảng cách ngày càng lớn giữa giá gạo Ấn Độ và giá gạo của các nước khác, các khách hàng hiện sẵn sàng chấp nhận mức giá cao hơn.
Sản lượng gạo của Ấn Độ dự kiến sẽ giảm trong năm nay, lần đầu tiên sau 8 năm, khiến nhiều khả năng New Delhi sẽ gia hạn hạn chế xuất khẩu để giữ giá ở mức thấp trước cuộc tổng tuyển cử diễn ra vào năm 2024.
Giá gạo 5% tấm của Thái Lan đã tăng lên mức cao nhất kể từ tháng 8/2023, ở mức từ 646 - 650 USD/tấn, so với mức 640 USD/tấn trong tuần trước.
Các nhà giao dịch cho biết mức tăng này là nhờ lượng đơn đặt hàng lớn từ Philippines trong tuần này.
Ngày 18/12, Thủ tướng Srettha Thavisin cho biết, Indonesia đã thông báo với Chính phủ Thái Lan về ý định mua hai triệu tấn ngũ cốc.
Về thị trường nông sản Mỹ, giá các mặt hàng nông sản trên Sàn giao dịch hàng hóa Chicago (CBOT) đều tăng trong phiên ngày 22/12, dẫn đầu là lúa mỳ.
Khép phiên này, giá ngô giao tháng 3/2024 tăng 0,5 xu (0,11%) lên 4,73 USD/bushel, trong khi giá lúa mỳ giao cùng kỳ hạn tăng 3,75 xu (0,61%) lên 6,1625 USD/bushel. Còn giá đậu tương giao tháng 3/2024 tăng 4,5 xu (0,35%) lên 13,0625 USD/bushel (1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg).
Năm 2024 sẽ không ổn định khi các rủi ro địa chính trị xuất hiện trong năm 2023 sẽ kéo dài sang năm 2024 và ngày càng gia tăng. Như vậy, các nước có sản lượng ngũ cốc dồi dào để tăng cường bổ sung cho kho dự trữ chiến lược để phòng trừ những trường hợp gián đoạn chuỗi cung ứng.
Khu vực miền bắc và miền nam Brazil sẽ có mưa rải rác cho đến ngày 24/12. Khả năng mưa sẽ giảm dần vào tuần tới. Nhiệt độ ở Brazil luôn ở mức bằng hoặc trên mức trung bình.
Về thị trường cà phê thế giới, kết thúc phiên giao dịch cuối tuần, giá cà phê Robusta trên sàn ICE Europe – London đảo chiều giảm. Giá cà phê Robusta giao tháng 3/2024 giảm 127 USD xuống 2.837 USD/tấn và giá cà phê Robusta kỳ hạn giao tháng 5/2023 giảm 104 USD xuống 2.766 USD/tấn. Khối lượng giao dịch ở mức trung bình.
Tương tự, giá cà phê Arabica trên sàn ICE US – New York cùng xu hướng giảm. Giá cà phê Arabica giao tháng 3/2024 giảm 0,8 xu, xuống 192,80 xu/lb và giá cà phê Arabica giao tháng 5/2023 giảm 0,85 xu xuống 190,25 xu/lb (1 lb = 0,4535 kg). Khối lượng giao dịch ở mức trung bình.
Giá cà phê nhân xô tại các tỉnh Tây Nguyên giảm từ 1.900 – 2.000 đồng, xuống dao động trong khung 67.000 – 68.000 đồng/kg. Giá cà phê tươi giao dịch quanh mức 15.000 đồng/kg.
Giá cà phê Robusta đảo chiều giảm mạnh ngay trong ngày thông báo đầu tiên khi các quỹ và đầu cơ đẩy mạnh thanh lý để phòng tránh rủi ro trước kỳ nghỉ Lễ Giáng Sinh cuối tuần kéo dài. Dòng vốn đầu cơ dịch chuyển về các tài sản trú ẩn đã đẩy giá vàng tăng vọt. Trong khi đó, thị trường kỳ vọng Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) sẽ bắt đầu chu kỳ cắt giảm lãi suất kể từ tháng 3/2024 do các báo cáo chỉ số kinh tế Mỹ tỏ ra vững chắc, chỉ số chi tiêu tiêu dùng cá nhân (PCE) tốt hơn mong đợi, chỉ số đồng USD tiếp tục có xu hướng xuống mức thấp hơn.
Báo cáo bán niên định kỳ của Bộ phận nông nghiệp nước ngoài (FAS) trực thuộc Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) đã điều chỉnh tăng dự báo sản lượng của một số quốc gia sản xuất cà phê Arabica chính trên thế giới như Brazil (Bra-xin), Colombia (Cô-lom-bi-a), Ethiopia (Ê-ti-ô-pi-a) đã dẫn đến sản lượng cà phê toàn cầu trong niên vụ 2023/2024 sẽ tăng 4,19% so với dự báo trước, lên ở mức 171,40 triệu bao. Con số này sẽ bù đắp cho sản lượng sụt giảm của Indonesia (In-đô-nê-xi-a), quốc gia chủ yếu sản xuất Robusta chính ở khu vực Đông Nam Á sẽ giảm 2,15 triệu bao, tức giảm 18,14% so với niên vụ trước, xuống chỉ đạt 9,7 triệu bao trong niên vụ hiện tại.
FAS cũng điều chỉnh sản lượng của Việt Nam trong niên vụ hiện tại 2023/2024 sẽ đạt 27,50 triệu bao, tăng 1,10%, so với niên vụ trước, trong đó có 26,62 triệu bao cà phê Robusta, tăng 1,22% và 880.000 bao cà phê Arabica, giảm 11,11% so với niên vụ cà phê trước đó, nhưng lại giảm 3,8 triệu bao so với ước tính trước đó. Ngoài ra, FAS còn dự đoán tồn kho cà phê mang sang từ niên vụ 2022/2023 chỉ khoảng 339.000 bao cà phê, do nguồn cung của niên vụ hạn chế.