Duy trì việc giám sát, kiểm tra thường xuyên
Từ tháng 7/2016 đến nay, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã thành lập Tổ giám sát liên ngành gồm Tổng cục Môi trường, đại diện một số đơn vị của Bộ Tài nguyên và Môi trường; các sở, ngành của tỉnh Hà Tĩnh; một số bộ, ngành liên quan; các chuyên gia, nhà khoa học và các cơ quan khoa học của Việt Nam. Tổ giám sát vận hành theo cơ chế đặc biệt có nhiệm vụ kiểm tra, giám sát các hoạt động bảo vệ môi trường của FHS.
Đồng thời, Tổ giám sát đôn đốc FHS khẩn trương khắc phục các tồn tại và hoàn thành các công trình bảo vệ môi trường theo cam kết, đảm bảo chất thải được xử lý đạt Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường của Việt Nam (QCVN), nhất là cải tiến công nghệ xử lý chất thải đạt tiêu chuẩn quốc tế. G
ần 3 năm qua, Tổ giám sát đã kiểm tra, giám sát FHS theo cơ chế thường xuyên, liên tục, định kỳ và đột xuất. Thông qua các hệ thống quan trắc tự động, liên tục được kết nối với Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Hà Tĩnh và Tổng cục Môi trường để giám sát FHS 24/24h.
Để kiểm tra, giám sát nước thải, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã yêu cầu FHS lắp đặt 4 trạm quan trắc tự động, liên tục để kiểm soát từng công đoạn sản xuất, xử lý môi trường (tại Trạm xử lý nước thải sinh hoạt, Trạm sinh hóa, Trạm công nghiệp và Trạm quan trắc online trước khi xả ra biển; giám sát từ 11 - 15 thông số).
Về khí thải, Bộ yêu cầu FHS lắp đặt đầy đủ hệ thống xử lý khí thải tại các phân xưởng sản xuất và yêu cầu lắp đặt 20 trạm quan trắc tự động tại 20 ống khói để giám sát 8 thông số. Nước thải, khí thải của FHS được lấy mẫu phân tích hàng ngày. Nước thải được lấy mẫu phân tích đánh giá 3 lần/ngày ở các thời điểm khác nhau thông qua 2 Trạm kiểm định môi trường di động được Bộ đặt tại FHS từ tháng 7/2016 đến nay. Khí thải được lấy mẫu phân tích 1 lần/ngày tại các ống khói có hoạt động xả thải. Tổ giám sát đã cử bộ phận thường trực của tỉnh Hà Tĩnh hàng ngày có mặt tại FHS để giám sát các hoạt động bảo vệ môi trường. Bộ còn phối hợp với các bộ, ngành và tỉnh Hà Tĩnh triển khai 14 đoàn kiểm tra, giám sát tại FHS theo định kỳ và đột xuất.
Kết quả giám sát từ tháng 7/2016 đến nay cho thấy, nước thải, khí thải của FHS trước khi xả ra ngoài môi trường luôn đạt QCVN cho phép. Một số thông số dần tiếp cận với tiêu chuẩn của các nước tiên tiến trên thế giới. Chất lượng môi trường biển đã an toàn, ổn định. Môi trường nước ngầm và không khí xung quanh luôn đáp ứng QCVN quy định. FHS đã quản lý các loại chất thải rắn phát sinh theo đúng quy định.
Cuối tháng 5/2017, FHS đã khắc phục xong các tồn tại và đã hoàn thành các hạng mục cải thiện, bổ sung công trình xử lý chất thải để đảm bảo tiêu chuẩn quốc tế theo yêu cầu tại Quyết định số 2604/QĐ-BTNMT ngày 9/11/2016 của Bộ Tài nguyên và Môi trường. Các hạng mục bao gồm: lắp đặt bổ sung hệ thống quan trắc khí thải, nước thải tự động, liên tục; bổ sung 2 bể sự cố tại Trạm xử lý nước thải sinh hoạt; bổ sung công đoạn tiền xử lý, khử màu và lọc áp lực tại Trạm xử lý nước thải sinh hoá; bổ sung 4 bồn lọc cao tải tại Trạm xử lý nước thải công nghiệp; xây lắp bổ sung 2 hệ thống xử lý nước tuần hoàn dập cốc, 2 hệ thống xử lý nước mưa chảy tràn cho bãi chứa phế liệu và hệ thống hồ sự cố kết hợp hồ sinh học trên diện tích khoảng 10 ha. Hiện các dòng nước thải sinh hoạt, sinh hóa và công nghiệp đã được xử lý đạt QCVN ở các Trạm xử lý nước thải cục bộ của FHS sau khi qua hệ thống hồ sinh học tiếp tục được xử lý, cải thiện tốt hơn trước khi xả ra biển, chất lượng phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế.
Việc chuyển đổi phương pháp làm nguội than cốc từ ướt sang khô, FHS đã lựa chọn công nghệ làm nguội cốc khô (CDQ) của Nhật Bản để thực hiện. Hệ thống CDQ số 1 đã hoàn thành và vận hành thử nghiệm từ ngày 17/3/2019. Hệ thống CDQ số 2 đã cơ bản hoàn thành, dự kiến vận hành trong tháng 6/2019 theo đúng thời hạn đã cam kết với Chính phủ Việt Nam.
Chất thải rắn thực hiện theo Luật Bảo vệ môi trường
Cũng như các nhà máy luyện thép liên hợp từ quặng sắt trên thế giới, chất thải rắn phát sinh từ hoạt động của khu liên hợp được thu hồi, tái chế, tái tuần hoàn ở các công đoạn sản xuất khác nhau để giảm thiểu tối đa lượng chất thải ra ngoài môi trường. Tại Việt Nam, nội dung này được khuyến khích thực hiện theo quy định của Luật Bảo vệ môi trường.
Theo đó, chất thải rắn của FHS đã được phân loại thành 14 loại với 64 danh mục chính và được quản lý theo 3 nhóm. Nhóm chất thải đã được hợp chuẩn/hợp quy, coi là sản phẩm, hàng hóa vật liệu xây dựng, được bán ra bên ngoài hoặc tự tái sử dụng tại FHS theo các mục đích đã hợp chuẩn/hợp quy, gồm xỉ hạt lò cao phát sinh khoảng 5.300 tấn/ngày đã được hợp quy là sản phẩm để sản xuất xi măng, đang được bán cho các nhà máy xi măng trong nước và xuất khẩu ra nước ngoài (đã chuyển giao 2.811.600 tấn). Tro bay nhà máy điện phát sinh khoảng 200 tấn/ngày đã được hợp quy làm nguyên liệu cho sản xuất bê tông, vữa xây và xi măng (đã chuyển giao 190.600 tấn). Thạch cao nhà máy điện phát sinh khoảng 90 tấn/ngày đã được hợp chuẩn là sản phẩm để sản xuất xi măng (đã chuyển giao 59.700 tấn). Tro đáy nhà máy điện phát sinh khoảng 15 tấn/ngày đã được hợp chuẩn là sản phẩm phụ gia khoáng cho xi măng.
Một số loại xỉ thép là xỉ lò chuyển, xỉ đúc, xỉ khử lưu huỳnh phát sinh khoảng 2.500 tấn/ngày. Thực hiện theo hướng dẫn tại Quyết định số 430/QĐ-BXD ngày 16/5/2017 của Bộ trưởng Bộ Xây dựng, FHS đã hợp chuẩn các loại xỉ thép này theo các tiêu chuẩn của Nhật Bản, Anh và Việt Nam để làm sản phẩm phụ gia xi măng, vật liệu cấp phối cho đường giao thông và vật liệu san lấp cho các công trình xây dựng, giao thông. Tổng khối lượng đã phát sinh 1.141.800 tấn, đã sử dụng trong công trình đường giao thông và vành đai cây xanh trong nội bộ nhà máy là 238.000 tấn, chuyển giao cho các nhà máy xi măng và sản xuất vật liệu xây dựng là 21.600 tấn. Hiện còn khoảng 881.400 tấn được lưu giữ an toàn tại 3 bãi chứa xỉ thép trên bờ. Nhóm chất thải có hàm lượng sắt cao có thể tự tái chế, tái sử dụng nội bộ hoặc chuyển giao cho các cở sở để sử dụng làm nguyên liệu sản xuất. Chủ yếu là bụi thu hồi từ các xưởng sản xuất, bùn lò chuyển, gang xỉ, thép xỉ, bột từ.
Đối với 1.334 tấn bùn cán nóng (thành phần chủ yếu là vảy cán) và 28.737 tấn bùn bụi phối trộn do có hàm lượng tổng dầu cao chưa được phép tái sử dụng, FHS đang lưu giữ an toàn trong thời gian chờ hoàn thành lắp đặt bổ sung thiết bị xử lý khí thải SO2, NOx và Dioxin/Furan tại 2 máy thiêu kết. Đối với bùn bánh lò cao phát sinh khoảng 150 tấn/ngày (đã tái sử dụng 8.200 tấn, hiện tồn kho là 79.900 tấn), Bộ Tài nguyên và Môi trường đã yêu cầu FHS lưu giữ an toàn và xây dựng phương án tái sử dụng chất thải này, nhằm thu hồi các thành phần có ích nhưng phải đảm bảo an toàn tuyệt đối về môi trường.
Nhóm chất thải phải chuyển giao cho các đơn vị có chức năng xử lý gồm: rác thải sinh hoạt phát sinh khoảng 1 tấn/ngày; chất thải rắn công nghiệp thông thường (bùn thải Trạm xử lý nước thải sinh hoạt, bùn thải trạm xử lý nước thải công nghiệp, gỗ thải, nilong thải, chất thải xây dựng…) phát sinh khoảng 12 tấn/ngày và chất thải nguy hại (bùn thải Trạm xử lý nước thải sinh hóa, nước thải súc rửa đường ống, dầu thải…) phát sinh khoảng 20 tấn/ngày được FHS lưu giữ an toàn trong khu liên hợp trước khi chuyển giao cho các đơn vị chức năng tại tỉnh Hà Tĩnh xử lý theo quy định.
Việc lấy mẫu và phân tích mẫu chất thải đang được FHS thực hiện theo yêu cầu của Bộ Tài nguyên và Môi trường tại Quyết định số 2604/QĐ-BTNMT ngày 9/11/2016. FHS đã phối hợp với Viện Công nghệ môi trường thuộc Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam và Viện Hóa học và Công nghiệp Việt Nam thuộc Bộ Công Thương lấy, phân tích các mẫu nước thải, khí thải, phân định chất thải rắn và lấy mẫu môi trường xung quanh.
Để kiểm soát, giám sát chặt chẽ công tác xả thải của FHS, trong các đợt kiểm tra, giám sát FHS từ năm 2016 đến nay, Tổ giám sát liên ngành của Bộ đã 14 lần trưng cầu Trung tâm Kỹ thuật Tiêu chuẩn đo lường chất lượng 1 (thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ) và Trung tâm Quan trắc môi trường miền Bắc (thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường), để phân tích đối chiếu với kết quả do FHS phối hợp với các đơn vị thực hiện, trong đó có việc lấy đối chứng 72 mẫu chất thải rắn (gồm bùn lò chuyển, bùn lò cao, bùn cán nóng, bùn từ các trạm xử lý nước thải...) với đầy đủ các thông số đặc trưng theo QCVN quy định và đều phân tích thông số Chì (Pb).
Kiểm tra toàn diện việc vận chuyển, chuyển giao và sử dụng phế liệu gang xỉ
Lý giải về vấn đề quản lý, chuyển giao phế liệu gang xỉ tại FHS, Bộ Tài nguyên và Môi trường cho rằng, theo quy định tại Khoản 16 Điều 3 Luật Bảo vệ môi trường, phế liệu “là vật liệu được thu hồi, phân loại, lựa chọn từ những vật liệu, sản phẩm đã bị loại bỏ từ quá trình sản xuất hoặc tiêu dùng để sử dụng làm nguyên liệu cho một quá trình sản xuất khác”. Do đó, gang xỉ của FHS đã được phân loại, lựa chọn làm nguyên liệu sản xuất gang thép được coi là phế liệu làm nguyên liệu. Gang xỉ này nếu thải ra ngoài môi trường mới được xem là chất thải.
Khoản 3 Điều 5 Luật Bảo vệ môi trường quy định chính sách của Nhà nước là “đẩy mạnh tái chế, tái sử dụng và giảm thiểu chất thải”. Khoản 3 Điều 6 của Luật này quy định về hoạt động bảo vệ môi trường được khuyến khích là “Giảm thiểu, thu gom, tái sử dụng và tái chế chất thải.”; khoản 2 Điều 86 của Luật quy định “Chủ cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ làm phát sinh chất thải có trách nhiệm giảm thiểu, tái sử dụng, tái chế và thu hồi năng lượng từ chất thải hoặc chuyển giao cho cơ sở có chức năng phù hợp để tái sử dụng, tái chế và thu hồi năng lượng.”.
Như vậy, gang xỉ của FHS (có chứa 71,6% là sắt) được pháp luật khuyến khích tái sử dụng làm nguyên liệu sản xuất thép. Để cụ thể hóa quy định này, báo cáo đánh giá tác động môi trường được phê duyệt, xác nhận, trong Sổ chủ nguồn thải CTNH mã số 42.000221.T ngày 7/9/2015 của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Hà Tĩnh không có chất thải nguy hại là gang xỉ nêu trên. Các loại chất thải rắn như xỉ hạt lò cao, xỉ thép, tro bay, tro đáy, vật liệu chịu lửa, gang xỉ... của FHS sẽ ưu tiên tái sử dụng, thu hồi làm nguyên liệu cho quá trình sản xuất của khu liên hợp hoặc bán cho các ngành công nghiệp khác làm nguyên liệu.
Theo Công ước Basel về kiểm soát việc vận chuyển xuyên biên giới chất thải nguy hại và tiêu hủy chúng, không quy định chất thải ngành thép thuộc danh mục chất thải nguy hại. Tuy vậy, các quốc gia thành viên tham gia Công ước (trong đó có Việt Nam) có quyền quy định cụ thể danh mục chất thải nguy hại, quy chuẩn áp dụng để xác định một số loại chất thải có phải là nguy hại hay không trong trường hợp thải ra môi trường. Tại các nước phát triển trên thế giới như Hàn Quốc, Nhật Bản…, chất thải ngành thép đang được sử dụng trực tiếp, hoặc được sơ chế trước khi dùng làm nguyên liệu đầu vào cho các ngành công nghiệp khác, đặc biệt là ngành sản xuất vật liệu xây dựng.
Công nghệ của FHS sản xuất ra các sản phẩm thép chất lượng cao dùng làm cốt công trình, thép ống và ốc vít, nên gang lỏng được sản xuất từ lò cao có hàm lượng lưu huỳnh từ 0,01 - 0,03%. Trước khi đưa vào lò chuyển (BOF) luyện thép được FHS sử dụng vôi cục và vôi bột (CaO) để khử lưu huỳnh xuống dưới 0,005%. Để bảo đảm quá trình khử lưu huỳnh được xử lý hoàn toàn, phải sử dụng lượng vôi dư. Sản phẩm trung gian của quá trình này thu được gang xỉ khử lưu huỳnh sẽ chuyển đến Xưởng thu hồi tài nguyên (gồm các công đoạn ổn định hóa và nghiền tách) để thu lại các thành phần có giá trị sử dụng, trong đó có phế liệu gang xỉ (có chứa 71,6% là sắt). Độ kiềm (giá trị pH) trong gang xỉ cao bản chất là lượng vôi dư và hợp chất của Canxi (Ca), lượng vôi dư này còn có tác dụng xử lý khí thải (SOx) nếu gang xỉ này sử dụng trong lò điện hồ quang để sản xuất thép,….
Theo Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Hà Tĩnh, Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Thái Nguyên tiến hành kiểm tra, lấy mẫu phế liệu gang xỉ và mẫu chất thải sau khi tuyển gang xỉ làm nguyên liệu sản xuất của một số đơn vị thu mua, để phân tích và đã xác định có độ kiềm (pH) cao. Việc so sánh phế liệu gang xỉ (đang được sử dụng làm nguyên liệu sản xuất, không thải ra môi trường) với quy chuẩn nêu trên là không phù hợp, dễ dẫn đến hiểu lầm (ví dụ như dầu FO, hóa chất, xi măng và vữa xây (pH khoảng 13), vôi tôi (pH khoảng 14), quặng sunfua đa kim,... nếu lấy mẫu mang đi phân tích và so sánh với QCVN 07:2009/BTNMT thì tất cả là chất thải nguy hại). Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường đối với chất thải nói chung và tại QCVN 07:2009/BTNMT được sử dụng để kiểm soát chất thải khi chất thải đó thải ra môi trường, không sử dụng để đánh giá đối với phế liệu làm nguyên liệu sản xuất và trong chu trình sản xuất.
Văn bản trao đổi của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Thái Nguyên nêu: “Kết quả phân tích mẫu gang xỉ cho thấy giá trị pH đều vượt ngưỡng nguy hại…”, chứ không khẳng định gang xỉ là chất thải nguy hại. Vì gang xỉ là nguyên liệu sản xuất. Tuy vậy, các cơ sở tái chế, tái sử dụng gang xỉ (sau khi đã thu hồi sắt) nếu có phát sinh chất thải phải được quản lý theo quy định của pháp luật về chất thải.
Ngày 12/5/2019, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã tổ chức buổi làm việc với lãnh đạo tỉnh Hà Tĩnh và một số bộ, ngành liên quan về kết quả thực hiện công tác bảo vệ môi trường của FHS trong thời gian qua. Bộ Tài nguyên và Môi trường đã giao Tổng cục Môi trường tổ chức kiểm tra toàn diện hoạt động vận chuyển, chuyển giao và sử dụng phế liệu gang xỉ do Công ty TNHH Đầu tư Phát triển MHD Việt Nam vận chuyển từ FHS, tới các cơ sở sử dụng làm nguyên liệu sản xuất tại tỉnh Thái Nguyên. Trường hợp phát hiện vi phạm sẽ xử lý nghiêm theo đúng quy định của pháp luật và sẽ thông tin cho báo chí ngay khi có kết quả kiểm tra.