Bước vào nhiệm kỳ 2026 - 2030, Đảng bộ xác định mục tiêu phát triển cao, toàn diện, đặt ra yêu cầu đổi mới mạnh mẽ và sâu rộng hơn.
Nhìn lại nhiệm kỳ vừa qua, Đảng ủy Bộ Tài chính đã lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện và đạt nhiều kết quả quan trọng. Các cấp ủy quán triệt sâu sắc và thực hiện nghiêm túc nghị quyết, chỉ thị của Trung ương, đặc biệt là Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII, XIII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng gắn với học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Cùng với đó, việc tuyên truyền, phổ biến và triển khai Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng được triển khai đồng bộ, bài bản, được cụ thể hóa bằng các chương trình hành động thiết thực của Bộ.
Về nhiệm vụ chính trị, Bộ Tài chính đã đẩy mạnh hoàn thiện thể chế, điều hành chính sách tài khóa chủ động, linh hoạt, phối hợp chặt chẽ với chính sách tiền tệ và các chính sách vĩ mô khác. Nhờ đó, ngành tài chính góp phần giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế, huy động nguồn lực cho đầu tư phát triển, cải thiện môi trường đầu tư – kinh doanh và phát triển thị trường tài chính ổn định. Trong hai năm cuối nhiệm kỳ, Bộ triển khai quyết liệt nhiều chủ trương mang tính đột phá như sắp xếp bộ máy, hoàn thiện pháp luật, đẩy mạnh cải cách hành chính và tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, dự án tồn đọng.
Cùng với đó, xây dựng Đảng có nhiều chuyển biến tích cực. Việc học tập, quán triệt nghị quyết được đổi mới; sinh hoạt chi bộ nền nếp hơn; công tác kiểm tra, giám sát được tăng cường, góp phần nâng cao kỷ luật, kỷ cương và ngăn chặn tiêu cực. Vai trò của cấp ủy trong công tác tổ chức và cán bộ được phát huy rõ.
Bí thư Đảng ủy, Bộ trưởng Nguyễn Văn Thắng nhấn mạnh: “Dưới sự lãnh đạo sâu sát của Đảng bộ Bộ Tài chính và sự đoàn kết, nỗ lực của toàn thể cán bộ, đảng viên, chúng ta đã đạt được nhiều kết quả đáng tự hào. Riêng công tác tham mưu xây dựng thể chế, Bộ đã chủ trì xây dựng và trình ban hành 738 văn bản quy phạm pháp luật… Đây là minh chứng cho tinh thần đổi mới, chủ động và quyết liệt trong chỉ đạo, điều hành."
Bộ trưởng cho biết thêm, giai đoạn 2021–2025, tổng quy mô chính sách miễn, giảm, gia hạn thuế, phí, lệ phí và tiền thuê đất đạt khoảng 1,1 triệu tỷ đồng, góp phần hỗ trợ doanh nghiệp, người dân phục hồi sau đại dịch. Trong phòng, chống dịch Covid-19, Bộ đã tham mưu nhiều giải pháp “chưa từng có”, góp phần thực hiện hiệu quả mục tiêu “thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch bệnh”. Bộ cũng tham mưu Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội; hỗ trợ khoảng 105 nghìn tỷ đồng cho trên 1,4 triệu lượt người sử dụng lao động và trên 68,4 triệu lượt người lao động gặp khó khăn. Từ khi hợp nhất bộ máy ngày 1/3/2025, Bộ nhanh chóng ổn định tổ chức, phát huy lãnh đạo thống nhất, đảm bảo hoạt động thông suốt.
Về thu ngân sách nhà nước, quản lý thu được tăng cường, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, đơn giản hóa thủ tục hành chính. Giai đoạn 2021–2025, tổng thu ngân sách nhà nước ước đạt 9,4 triệu tỷ đồng, vượt mục tiêu (8,3 triệu tỷ đồng) và gấp 1,36 lần giai đoạn 2016–2020. Tỷ lệ huy động vào ngân sách nhà nước khoảng 18,3% GDP (mục tiêu 16% GDP); tỷ trọng thu nội địa cao hơn các giai đoạn trước. Các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, người dân thông qua miễn, giảm, giãn thuế, phí, lệ phí và tiền thuê đất đạt khoảng 840 nghìn tỷ đồng.
Về chi ngân sách nhà nước, Bộ bám sát định hướng chiến lược, triển khai phân bổ nguồn lực công hiệu quả, công khai, minh bạch. Tổng chi ngân sách nhà nước giai đoạn 2021–2025 ước đạt 10,4 triệu tỷ đồng, đảm bảo nguồn lực cho phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh và an sinh xã hội. Chi đầu tư phát triển được ưu tiên, bình quân 28–29% tổng chi; tổng nguồn chi đầu tư phát triển đạt 3,4 triệu tỷ đồng. Chi thường xuyên được điều hành chặt chẽ; ưu tiên phòng chống dịch; thực hiện tăng lương cơ sở, điều chỉnh lương hưu và các chính sách xã hội với mức tăng cao nhất từ trước tới nay.
Về cân đối ngân sách và nợ công, bội chi ngân sách nhà nước bình quân giai đoạn 2021–2025 khoảng 3,4% GDP, đáp ứng mục tiêu Quốc hội giao. Tỷ lệ nợ công giảm mạnh từ 62,7% GDP năm 2021 xuống còn khoảng 36–37% GDP năm 2025, nằm trong giới hạn an toàn.
Ngoài ra, đầu tư công trung hạn được triển khai quyết liệt, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền. Đến nay đã phân bổ 100% kế hoạch vốn đầu tư công trung hạn; giảm mạnh số lượng dự án so với giai đoạn trước; giải ngân có chuyển biến tích cực. Bộ tham mưu trình Bộ Chính trị Đề án về phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ giai đoạn 2021–2030.
Trong quản lý ngân quỹ, Bộ đảm bảo đáp ứng đầy đủ, kịp thời nhu cầu thanh toán của ngân sách nhà nước, đồng thời nộp ngân sách nhà nước 21,2 nghìn tỷ đồng từ hoạt động sử dụng ngân quỹ tạm thời nhàn rỗi. Công tác huy động vốn qua trái phiếu Chính phủ đạt gần 1,99 triệu tỷ đồng, kỳ hạn phát hành bình quân 12,3 năm, lãi suất bình quân 2,88%/năm.
Thị trường bảo hiểm tiếp tục phát triển; tổng tài sản ước đạt trên 1 triệu tỷ đồng năm 2025, tổng vốn đầu tư trở lại nền kinh tế khoảng 881 nghìn tỷ đồng.
Về đầu tư nước ngoài, giai đoạn 2020–2025, Việt Nam thu hút 14.490 dự án mới với tổng vốn 190,6 tỷ USD; đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam đạt 2,2 tỷ USD.
Bên cạnh những kết quả đạt được, Bộ trưởng Nguyễn Văn Thắng thẳng thắn chỉ ra những hạn chế: tỷ lệ động viên vào ngân sách so với GDP chưa đạt kỳ vọng; cổ phần hóa, thoái vốn doanh nghiệp nhà nước còn chậm; đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số mới ở giai đoạn đầu; tiến độ tham mưu một số đề án chưa đạt yêu cầu; tuyên truyền ở một số cấp ủy chưa kịp thời; công tác xây dựng Đảng, phòng chống tham nhũng ở một số nơi còn để xảy ra vi phạm.
Bước vào nhiệm kỳ 2026–2030, Đảng bộ Bộ Tài chính đặt mục tiêu tăng trưởng GDP bình quân 10%/năm; GDP bình quân đầu người 8.500 USD; đóng góp TFP đạt khoảng 55%; lạm phát 4–4,5%/năm; tỷ lệ huy động vào ngân sách đạt 18% GDP; bội chi khoảng 5% GDP; nợ công bình quân trên 45% GDP.
Đảng bộ đề ra nhiều chỉ tiêu lớn về thị trường tài chính: đến năm 2030, vốn hóa thị trường cổ phiếu đạt 120% GDP; dư nợ thị trường trái phiếu tối thiểu 58% GDP. Về phát triển doanh nghiệp, đến năm 2030 có 2 triệu doanh nghiệp hoạt động, trong đó có ít nhất 20 doanh nghiệp lớn tham gia chuỗi giá trị toàn cầu; kinh tế tư nhân tăng trưởng bình quân 10–12%/năm; doanh nghiệp nhà nước có ít nhất 50 doanh nghiệp vào Top 500 doanh nghiệp Đông Nam Á và ít nhất1 doanh nghiệp vào Top 500 doanh nghiệp thế giới; doanh nghiệp FDI có vốn đăng ký 200–300 tỷ USD giai đoạn 2026–2030, tỷ lệ nội địa hóa trên 40%.
Các mục tiêu về an sinh xã hội, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế được đặt ra ở mức cao, hướng tới bao phủ toàn diện. Trong xây dựng Đảng, Đảng bộ phấn đấu 100% cán bộ, đảng viên được học tập, quán triệt kịp thời Nghị quyết Đại hội XIV và nghị quyết nhiệm kỳ mới của Đảng bộ Bộ Tài chính.