Trong bối cảnh hội nhập sâu rộng thông qua các Hiệp định Thương mại tự do, thì việc kiện chống bán phá giá được xem là một trong ba công cụ hợp pháp và hữu ích mà các doanh nghiệp (DN) và ngành hàng có thể sử dụng để bảo vệ thị trường nội địa.
Tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng
Việt Nam lần đầu tiên tiến hành điều tra chống bán phá giá thép ngoại vào tháng 7/2013 sau khi Công ty TNHH Posco VST và Công ty cổ phần Inox Hòa Bình gửi văn bản tới Bộ Công Thương yêu cầu áp thuế chống bán phá giá đối với sản phẩm thép không gỉ nhập từ Trung Quốc, Malaysia, Indonesia và Đài Loan (Trung Quốc).
Đánh thuế chống bán phá giá với thép không gỉ nhập khẩu để bảo đảm sự cạnh tranh bình đẳng ở thị trường nội địa. Ảnh: Trần Việt-TTXVN |
Theo Cục Quản lý cạnh tranh, những năm qua, Việt Nam phải chịu khoảng 100 vụ kiện thương mại; trong đó có gần 50 vụ kiện chống bán phá giá, và đây là lần đầu tiên chúng ta sử dụng công cụ này thành công. Theo kết luận cuối cùng được Cục Quản lý cạnh tranh đưa ra, đã có hiện tượng chống bán phá giá thép không gỉ nhập khẩu từ 4 nước và vùng lãnh thổ vào Việt Nam, gồm Trung Quốc, Indonesia, Malaysia và Đài Loan, gây thiệt hại cho sản xuất trong nước.
Từ ngày 5/10 sẽ áp thuế chống bán phá giá với sản phẩm nhập khẩu từ các thị trường Trung Quốc, Indonesia, Malaysia và Đài Loan (Trung Quốc) với mức thuế từ 3,07 - 37,29%. |
Phó Chủ tịch Hiệp hội Thép Việt Nam, ông Nguyễn Văn Sưa cho rằng, với nhu cầu trong nước hiện nay, năng lực sản xuất thép không gỉ trong nước có thể hoàn toàn đáp ứng đủ. Tuy nhiên, thực tế sản xuất ở các DN đến nay vẫn chưa thể đạt được công suất thiết kế do phải cạnh tranh gay gắt với một lượng lớn thép không gỉ nhập khẩu đến từ Malaysia, Indonesia và Đài Loan (Trung Quốc), DN nước ngoài bán phá giá gây ảnh hưởng đến sản xuất trong nước và các DN Việt Nam có quyền yêu cầu, kiến nghị điều tra. Đây là biện pháp bảo vệ mình và phù hợp chuẩn mực quốc tế. Tất nhiên, sẽ có nhiều ý kiến mâu thuẫn lợi ích từ các DN nhập khẩu, do lo ngại chi phí đầu vào sẽ tăng cao.
Theo bà Phạm Châu Giang, Trưởng phòng Điều tra các vụ kiện phòng vệ thương mại của DN trong nước (Cục Quản lý cạnh tranh), mục đích của việc áp thuế chống bán phá giá nhằm lập lại môi trường cạnh tranh công bằng giữa hàng hóa nước ngoài nhập khẩu vào Việt Nam và đang bán phá giá với hàng hóa được sản xuất trong nước.
Bà Giang cho biết, theo Công văn số 8300 ngày 23/6/2014 của Bộ Tài chính về áp dụng thuế tự vệ, chống bán phá giá, chống trợ cấp, sẽ áp dụng thuế chống bán phá giá như thuế nhập khẩu. Tức là khi DN nhập khẩu hàng hóa này gia công chế xuất để xuất đi nước ngoài thì sẽ được miễn thuế chống bán phá giá hoặc được hoàn lại trong trường hợp nếu đã phải nộp thuế chống bán phá giá. Như vậy, có thể nói kết quả vụ kiện này không tác động đến doanh nghiệp nhập khẩu của Việt Nam sử dụng sản xuất để xuất khẩu đi nước ngoài.
Còn đối với các DN sử dụng để sản xuất cho hàng hóa trong nước, bà Giang cho rằng, hiện xuất khẩu thép vào Việt Nam có nhiều nước, do đó, các nhà sản xuất trong nước có thể nhập khẩu từ các nguồn khác mà không bị đánh thuế chống bán phá giá. Hơn nữa vì sản phẩm nhập khẩu thì chỉ chiếm phần nhỏ nên sẽ không tác động quá nhiều đến thị trường và người tiêu dùng.
Chủ động các biện pháp phòng vệ
Đây không phải là lần đầu tiên câu chuyện chống bán phá giá được nhắc đến. Thực tế, ngay trong năm 2014, chúng ta đã chứng kiến nhiều vụ việc Việt Nam bị kiện chống bán phá giá các mặt hàng vải bạt nhựa, ống dẫn dầu, lốp xe đạp và sản phẩm thép hàn không gỉ chịu lực, tấm thép không hợp kim cán nóng... Tuy nhiên, nhìn nhận lại những vụ việc đã qua, cũng như đánh giá kết quả từ việc điều tra chống bán phá giá đầu tiên đối với sản phẩm thép không gỉ cán nguội nhập khẩu vào thị trường nội địa, nhiều chuyên gia cho rằng, các DN chưa thực sự quan tâm và coi các biện pháp phòng vệ thương mại như chiến lược trong kinh doanh.
Theo bà Phạm Châu Giang, trong vụ kiện đối với sản phẩm thép lần này, ngoài hạn chế từ nguồn nhân lực của cơ quan điều tra, rào cản về ngôn ngữ, hệ thống tài chính kế toán thì sự chuẩn bị của các DN liên quan chưa tốt.
“Khi chúng tôi thông báo các bên liên quan, các DN đăng kí để có thể tiếp cận hồ sơ thì rất nhiều DN không quan tâm. Khi có vấn đề, có quyết định áp thuế thì các DN này muốn tìm hiểu tiếp cận hồ sơ, tài liệu thì đã muộn”, bà Giang cho hay.
Cùng quan điểm này, ông Nguyễn Văn Sưa cho rằng, đối với công cụ chống bán phá giá, các DN ngành thép đã tham gia nhiều, nhưng vẫn chưa thực sự có ý thức phối hợp cùng các cơ quan điều tra để cung cấp số liệu, thông tin giúp quá trình điều tra chuẩn xác và thuận lợi. Điều này có thể lý giải do các DN thép nhập khẩu, kể cả sản xuất lẫn thương mại đều nhỏ, nên chiến lược lâu dài cũng như hiểu biết về luật pháp quốc tế còn nhiều hạn chế.
Vì vậy, một trong những kinh nghiệm rút ra là, với các vụ tranh chấp thương mại thì các DN cần chủ động chuẩn bị hồ sơ, thông tin và hợp tác với các cơ quan điều tra. Các cơ quan quản lý nhà nước cũng cần tăng cường năng lực chuyên môn để giúp DN trong các vụ tranh tụng thương mại. DN càng có sự chuẩn bị tốt đối với hồ sơ, chứng từ và có chủ động hợp tác với các cơ quan điều tra thì việc sử dụng những biện pháp phòng vệ sẽ càng hiệu quả.
Đức Dũng