Theo Hội Mỹ nghệ và chế biến gỗ (Hawa), hiện ngành thủ công mỹ nghệ và đồ gỗ Việt Nam đang đứng trước nhiều khó khăn do những biến động mạnh về tỷ giá, chi phí đầu vào tăng không ngừng, lãi suất cao... Trong khi đó, khoảng 70% doanh nghiệp (DN) của ngành này có quy mô nhỏ và vừa, tiềm lực yếu, khó tiếp cận nguồn vốn vay dẫn đến vòng quay vốn chậm, hiệu quả sản xuất không cao, không tạo ra được giá trị cao cho sản phẩm và khó cạnh tranh. Theo thống kê, cả nước có khoảng 22 nhà máy sản xuất dăm mảnh xuất khẩu với tổng công suất 1,8 triệu tấn/năm, ước tính lượng tổng cầu khoảng 10 triệu m3 gỗ/năm. Trong khi đó, nguồn nguyên liệu trong nước không đáp ứng đủ nhu cầu trên, nên hàng năm các DN phải nhập khoảng từ 4 – 5 triệu m3, riêng năm 2010 nhập khẩu 4,32 triệu m3 gỗ.
Theo DN, việc nhập gỗ để cân đối sản xuất là giải pháp không bền vững, mang tính rủi ro cao, khó kiểm tra, xác định nguồn gốc gỗ khai thác hợp pháp và đáp ứng được những yêu cầu chứng minh nguồn gốc gỗ hợp pháp theo Luật Lacey & Flegt. Còn đối với nguồn gỗ trong nước, Luật pháp Việt Nam có những quy định rất cụ thể và chặt chẽ về vấn đề bảo vệ và trồng rừng, tuy nhiên việc triển khai thực hiện và kiểm soát còn một số hạn chế nhất định. Do đó, cần tăng cường xây dựng tính minh bạch trong bảo vệ và trồng rừng, thực hiện những chứng nhận về chuẩn mực chất lượng, nguồn gốc… cho nguyên liệu gỗ trong nước để hỗ trợ DN xuất khẩu phát triển bền vững.
Mỹ Phương