Chia sẻ tại hội thảo “Phát triển bền vững ngành dệt may trong bối cảnh COVID-19 và hội nghị tổng kết năm 2021 của Hiệp hội Dệt may Việt Nam (VITAS)” tổ chức ngày 17/12, ông Trần Như Tùng, Chủ tịch HĐQT Công ty cổ phần Dệt may - đầu tư - thương mại Thành Công, Phó Chủ tịch VITAS cho biết, thời gian qua, do ảnh hưởng của dịch COVID-19 đã đặt ra nhiều thách thức lớn và đặt ra yêu cầu doanh nghiệp phải đầu tư nhiều hơn.
Ông Trần Như Tùng nêu dẫn chứng, nhà máy của công ty ở miền Tây đã gặp nhiều khó khăn, theo quy định khi công nhân test nhanh phát hiện dương tính thì phải ở lại công ty, đến khi có test PCR khẳng định mới được đi cách ly tập trung. Như vậy mất từ 3-5 ngày người lao động phải ở lại công ty, nên để lo chăm sóc cho người lao động, doanh nghiệp phải xây dựng khu lưu trú tạm thời. "Trong bối cảnh số lượng F0 đang tăng dần lên, đây là vấn đề rất khó khăn", ông Tùng nói.
Trong khi đó, chi phí logistics tăng rất cao. Trước đây mua nguyên phụ liệu nhập Trung Quốc mua theo giá CIF (giao hàng tại cảng) thì nay chuyển sang bán theo FOB (giao hàng miễn trách nhiệm của người bán). Với mức chi phí logistics "tăng bằng lần", doanh nghiệp hoàn toàn phải chịu chi phí này, khiến giảm lợi nhuận.
"Hiện đơn hàng của doanh nghiệp dệt may không thiếu, nhưng nhiều khi doanh nghiệp không dám nhận đơn hàng vì không chủ động được sản xuất do thiếu lao động và không đảm bảo tiến độ có thể phải giao hàng bằng đường hàng không, chi phí rất lớn. Ví dụ nhà máy Vĩnh Long của chúng tôi làm cho Adidas nhưng không dám nhận nhiều. Doanh nghiệp không sợ thiếu đơn hàng mà chỉ sợ không đủ lực lượng lao động để sản xuất", ông Tùng chia sẻ.
Vấn đề phục hồi lao động đang là trở ngại lớn cho sản xuất. Bà Đỗ Quỳnh Chi, giám đốc Trung tâm Nghiên cứu quan hệ lao động, cho hay theo kết quả khảo sát ngành dệt may trong làn sóng COVID-19, để ứng phó với dịch bệnh, có 65% doanh nghiệp Việt Nam và 36% doanh nghiệp FDI đã phải dừng hoạt động và số còn lại chỉ hoạt động ở mức 30% công suất.
Đáng chú ý là sau một tháng, 66% người lao động không nhận được lương từ doanh nghiệp; 63,8% được thông báo về lương ngừng việc. Với những doanh nghiệp có trả lương và hỗ trợ người lao động trong giãn cách đã giúp phục hồi trên 80% người lao động trong vòng hơn một tháng; còn với doanh nghiệp gặp khó khăn hoặc không hỗ trợ thì tỉ lệ người lao động ngừng việc lên tới 25 - 50%.
Theo bà Chi, các quy định phòng, chống dịch không phải là trở ngại lớn nhất khiến các nhà mua hàng băn khoăn về việc đặt hàng, mà việc công ty có duy trì đối thoại với người lao động để duy trì lực lượng đảm bảo sản xuất hay không mới là vấn đề quan trọng.
Trong khi đó, khảo sát cũng cho thấy chiến lược của các nhà mua hàng chưa thay đổi, và Việt Nam vẫn là nước sản xuất quan trọng, trung tâm của các nhà mua hàng đến quý 2/2022. Tuy nhiên, do chi phí tăng, sức mua yếu nên các nhà mua hàng sẽ chỉ đặt đơn hàng nhỏ, yêu cầu thời gian giao hàng nhanh, phân tán ra nhiều nước, với giá không tăng.
Do đó, bà Chi khuyến nghị doanh nghiệp cần chú trọng đến đối thoại với người lao động, hỗ trợ khi khó khăn để nhanh chóng phục hồi lao động, tìm cách sống chung với dịch. Đồng thời, cần xem xét lại các cản trở hoạt động doanh nghiệp trong duy trì sản xuất, đẩy mạnh hỗ trợ người lao động, giải quyết những áp lực kinh tế cho các nhà máy và công nhân bị F0.
Ông Trương Văn Cẩm, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký VITAS đánh giá, năm 2022 dự báo tình hình quốc tế, trong nước có những thuận lợi, cơ hội và khó khăn, thách thức đan xen. Dịch COVID-19 có thể xuất hiện phức tạp, nguy hiểm hơn. Tăng trưởng kinh tế thế giới không đồng đều, chưa vững chắc và thấp hơn năm 2021; rủi ro tiếp tục gia tăng. Trong nước, kinh nghiệm, năng lực, khả năng ứng phó dịch bệnh tiếp tục được nâng lên, nhưng sức chống chịu và nguồn lực của Nhà nước, doanh nghiệp và người dân giảm sút. Nguy cơ chậm phục hồi kinh tế, suy giảm tăng trưởng vẫn còn tiềm ẩn nếu không kiểm soát được dịch bệnh một cách cơ bản để mở cửa trở lại nền kinh tế; rủi ro lạm phát gia tăng; thiên tai, biến đổi khí hậu là nguy cơ luôn tiềm ẩn.
Theo đại diện VITAS, nếu tình hình dịch bệnh được cơ bản kiểm soát trong quý I năm 2022, kịch bản tích cực nhất kim ngạch xuất khẩu sẽ đạt 41,5 – 42,5 tỷ USD; Kịch bản trung bình đạt 40 – 41 tỷ USD, nếu tình hình dịch bệnh còn phức tạp đến giữa năm 2022; Kịch bản kém tích cực nhất là tình hình dịch bệnh còn phức tạp kéo dài đến cuối năm 2022, kim ngạch xuất khẩu của ngành dự kiến chỉ đạt 38 - 39 tỷ USD.
Ông Trương Văn Cẩm kiến nghị, Nhà nước tiếp tục triển khai chiến lược vaccine là giải pháp căn cơ để các doanh nghiệp phục hồi và phát triển trong điều kiện “bình thường mới”, đưa quy định tiêm đủ 2 liều là điều kiện để tham gia các hoạt động sản xuất kinh doanh.
“Cần mở rộng chính sách tài khóa và tiền tệ, sửa đổi quy định còn bất cập giảm gánh nặng chi phí cho doanh nghiệp, bỏ hạn chế thời gian làm thêm giờ trên một năm lên 400 giờ. Cùng với đó, chúng tôi mong muốn Chính phủ sớm phê duyệt “Chiến lược phát triển ngành dệt may & Da giày Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến 2035” để ngành có thể tự túc nguyên phụ liệu, đáp ứng quy tắc xuất xứ của các FTA, ứng dụng công nghệ 4.0 để hiện đại hóa sản xuất, chuyển đổi số, xây dựng thương hiệu”, ông Trương Văn Cẩm kiến nghị.