Theo đó, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước yêu cầu các Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh, thành phố chủ động nghiên cứu, tham mưu cho Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố và phối hợp chặt chẽ với các Sở, Ban ngành trên địa bàn để triển khai có hiệu quả các giải pháp thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt đối với dịch vụ công theo Quyết định 241/QĐ-TTg của Chính phủ và Quyết định số 923/QĐ- Ngân hàng Nhà nước của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước với ưu tiên trong thời gian tới cho lĩnh vực y tế, giáo dục.
Cụ thể, Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh, thành phố phối hợp với các Sở, Ban ngành trên địa bàn tham mưu, đề xuất xây dựng và ban hành kế hoạch hành động của UBND tỉnh, thành phố về triển khai Nghị quyết 02/NQ-CP và Quyết định số 241/QĐ-TTg của Chính phủ; kế hoạch hành động cần gắn với những giải pháp, mục tiêu cụ thể và yêu cầu về thời hạn hoàn thành cũng như đơn vị đầu mối chịu trách nhiệm triển khai.
Ngoài ra, kiến nghị Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố có văn bản chỉ đạo các đơn vị cung ứng dịch vụ công trên địa bàn (cơ sở y tế, giáo dục, cơ quan Bảo hiểm xã hội, công ty nước sạch, điện lực, cơ quan giải quyết thủ tục hành chính,..) xây dựng hệ thống công nghệ thông tin, phần mềm ứng dụng có khả năngkết nối với phần mềm ứng dụng của các ngân hàng, tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán để tổ chức, cá nhân sử dụng phương thức thanh toán không dùng tiền mặt đối với dịch vụ công.
Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh, thành phố đề xuất giải pháp với UBND tỉnh, thành phố và phối hợp với các sở, ban ngành và tổ chức cung ứng dịch vụ công trên địa bàn áp dụng các phương án triển khai thanh toán không dùng tiền mặt đối với dịch vụ công, như trường học, bệnh viện và các đơn vị cung ứng dịch vụ công thông báo số tài khoản của đơn vị mình mở tại ngân hàng để tổ chức, cá nhân chuyển tiền thanh toán dịch vụ công bằng các dịch vụ thanh toán mà ngân hàng đang cung ứng (chuyển tiền qua mobile, thanh toán qua các kênh ngân hàng điện tử,..).
Văn bản cũng nêu rõ, các trường học, bệnh viện và đơn vị cung ứng dịch vụ công lắp đặt thiết bị chấp nhận thẻ, thanh toán ứng dụng QR để cho phép phụ huynh, học sinh, người bệnh, người dân,.. sử dụng thiết bị di động, thẻ ngân hàng để thanh toán (tương tự như việc thanh toán tiền mua hàng hóa tại các cửa hàng, siêu thị). Đồng thời, xây dựng hệ thống công nghệ thông tin cho phép ghi nhận thông tin cần thanh toán (số tiền, mã hồ sơ/khách hàng,..) để người sử dụng truy cập các ứng dụng trên internet, mobile và thực hiện trả tiền thông qua các sản phẩm dịch vụ thanh toán tiện ích của ngân hàng tương tự như việc thanh toán hóa đơn tiền điện, cước viễn thông...hiện nay.
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cũng yêu cầu Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh, thành phố chỉ đạo các tổ chức tín dụng trên địa bàn nghiên cứu, áp dụng chính sách phí dịch vụ thanh toán hợp lý và triển khai các chương trình ưu đãi, khuyến mại. Chẳng hạn như: miễn, giảm phí dịch vụ thanh toán cho khách hàng, các cơ sở y tế, giáo dục, đơn vị cung ứng dịch vụ công trong thời gian đầu triển khai; áp dụng các chương trình tặng quà, tích điểm, hoàn tiền, tham gia quay số trúng thưởng,.. cho những khách hàng đăng ký, sử dụng dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt,...Từ đó, để khuyến khích các đơn vị cung ứng dịch vụ công và khách hàng ưu tiên lựa chọn sử dụng dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt khi thực hiện thanh toán dịch vụ công.
Ngoài ra, Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh, thành phố tăng cường phối hợp với các cơ quan truyền thông, báo chí, tổ chức tín dụng, tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán trên địa bàn xây dựng các chương trình truyền thông về đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt đối với dịch vụ công, tập trung trước hết cho lĩnh vực y tế, giáo dục.
Mặt khác, thường xuyên cập nhật, nắm bắt kịp thời các quy định pháp luật, cơ chế chính sách và các văn bản chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước về hoạt động thanh toán để tổ chức triển khai. Thực hiện kiểm tra, chủ động theo dõi nắm bắt tình hình thực hiện đối với hoạt động cung ứng dịch vụ thanh toán, dịch vụ trung gian thanh toán đối với dịch vụ công trên địa bàn và báo cáo Ngân hàng Nhà nước về những khó khăn, vướng mắc phát sinh để theo dõi, tổng hợp và phối hợp với các đơn vị liên quan nghiên cứu, xử lý.