Tại Hội thảo lượng tử và công nghệ bản sao số vừa được tổ chức tại Đại học Middlesex ở London, các nhà khoa học Việt Nam và Anh đã chia sẻ với phóng viên TTXVN tại Anh những đánh giá tích cực về đường lối phát triển khoa học công nghệ của đất nước.
Đánh giá ý nghĩa của Nghị quyết 57 trong giai đoạn phát triển hiện nay, các nhà khoa học đều đồng tình rằng đầu tư vào khoa học công nghệ là hướng đi đúng đắn tạo động lực phát triển đột phá cho đất nước.
Tiến sĩ Tô Đức, Kỹ sư trưởng kiến trúc hệ thống, Công ty Rakuten Symphony UK, cho biết Nghị quyết 57 thể hiện tầm nhìn của Đảng và Nhà nước về phát triển khoa học và chuyển đổi số, là văn bản chiến lược, đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của đất nước trong nhiều thập kỷ tới.
Tiến sĩ Tô Đức cho rằng Nghị quyết 57 là bước đột phá, với cam kết thu hút, sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực đầu tư cho phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số quốc gia, đặc biệt là việc đề ra các mục tiêu và các hành động cụ thể để phát triển công nghệ và chuyển đổi số.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trần Gia Khánh, Viện Công nghệ Tokyo, Nhật Bản, khẳng định đầu tư cho khoa học, đặc biệt là chuyển đổi số, là hướng đi đúng đắn. Ông chỉ ra rằng các nước lớn và phát triển như Nhật, Mỹ đều đầu tư rất nhiều vào nghiên cứu về chuyển đổi số. Phó Giáo sư Trần Gia Khánh nhận định chuyển đổi số kết hợp với trí tuệ nhân tạo (AI) sẽ là động lực lớn để đưa nền kinh tế phát triển.
Giáo sư, Tiến sĩ Balbir Barn, Trưởng khoa Khoa học Công nghệ, Đại học Middlesex, nhấn mạnh có thể thấy rõ Việt Nam đang ở vị thế rất tốt để đi đầu trong phát triển công nghệ và tiến bộ khoa học, tạo động lực cho tăng trưởng. Theo Giáo sư Balbir Barn, qua các chuyến thăm Việt Nam và làm việc với các trường đại học, sinh viên, cũng như dự các hội nghị khoa học tại Việt Nam, ông thấy Việt Nam là đất nước có nhiều đổi mới sáng tạo, có văn hóa nghiên cứu sôi động. Đây chính là động lực cần thiết để có một xã hội đổi mới.
Bàn về những lĩnh vực Việt Nam có thể ưu tiên phát triển, các nhà khoa học nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xác định một vài lĩnh vực thế mạnh và tập trung nguồn lực để phát triển, thay vì đầu tư dàn trải, đồng thời cần đảm bảo tính thương mại hóa của các nghiên cứu khoa học.
Tiến sĩ Tô Đức cho rằng không thể xác định một cách chung chung như phát triển AI, mà cần xác định nhu cầu cụ thể trong ứng dụng AI và tập trung nguồn lực để làm bằng được, hoặc muốn giải quyết nhu cầu năng lượng quốc gia thì cần định hình các công nghệ tiềm năng để giải quyết các nhu cầu đó, để từ đó đưa ra các yêu cầu, mục tiêu để các nhà khoa học và doanh nghiệp đề xuất các giải pháp.
Cùng chung quan điểm trên, Tiến sĩ Võ Công Duẩn, Giám đốc công nghệ, Công ty Quantum Science Ltd., khuyến nghị với nguồn lực có hạn, Việt Nam cần tập trung vào những lĩnh vực then chốt có thế mạnh như nông nghiệp, công nghệ biến đổi gene và các công nghệ phục vụ nông nghiệp, hay công nghệ y sinh, thay vì đầu tư dàn trải, hiệu quả thấp, gây lãng phí.
Các chuyên gia cũng chia sẻ các bài học của Anh và quốc tế trong phát triển khoa học công nghệ mà Việt Nam có thể tham khảo áp dụng, nhấn mạnh sự liên kết giữa nhà nước, các trường đại học và doanh nghiệp.
Theo Giáo sư Balbir Barn, bài học quan trọng Việt Nam có thể tham khảo từ Anh là xây dựng một hệ sinh thái liên kết, trong đó chính phủ tài trợ hoạt động đổi mới sáng tạo, các trường đại học tận dụng nguồn tài trợ để tạo ra ý tưởng mới và các doanh nghiệp vừa và nhỏ thực hiện đổi mới sáng tạo thông qua việc tiếp cận nguồn tài trợ để hợp tác với các trường đại học và chính phủ xây dựng hệ sinh thái này. Giáo sư Barn chia sẻ Anh hiện có một số tổ chức tài trợ cho cơ chế này, trong đó có Innovate UK, tổ chức hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ và các doanh nghiệp Việt Nam có thể tiếp cận nguồn tài trợ trên.
Tiến sĩ Võ Công Duẩn cho biết tại Anh có các quỹ tài trợ dự án đổi mới sáng tạo, trong đó các trường đại học hợp tác với các doanh nghiệp vì sự tham gia của doanh nghiệp chứng minh các nghiên cứu khoa học có thể áp dụng cho công nghiệp, tạo ra sản phẩm, dịch vụ phục vụ đời sống, mang lại hiệu quả kinh tế.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trần Gia Khánh chia sẻ kinh nghiệm nghiên cứu hơn 20 năm của ông cho thấy điều quan trọng nhất là kết quả nghiên cứu phải được ứng dụng trong đời sống, đặc biệt là được thương mại hóa bởi nếu chi cho nghiên cứu tạo nên các sản phẩm thương mại thì mới sinh ra lợi nhuận để tái đầu tư cho khoa học.
Về phần mình, Tiến sĩ Tô Đức chỉ ra xu hướng công ty đa quốc gia cho các hoạt động khoa học, nghiên cứu phát triển bởi các công ty đa quốc gia có khả năng huy động nguồn chất xám từ các quốc gia khác nhau, cho rằng đây là kinh nghiệm các doanh nghiệp Việt Nam có thể tham khảo. Ông cũng nhấn mạnh tầm nhìn về phát triển khoa học cần chú trọng giáo dục, đặc biệt là giáo dục phổ thông, bởi không có nền giáo dục nào chỉ đào tạo các nhà khoa học, song cần tạo ra môi trường nuôi dưỡng tình yêu khoa học và khuyến khích khám phá khoa học. Ông cho biết đây là con đường các nước phát triển đang đi mà Việt Nam có thể học tập.
Bàn về cách thức các nhà khoa học Việt kiều có thể đóng góp cho sự phát triển của đất nước, Tiến sĩ Tô Đức cho rằng cần tổ chức bản đồ mạng lưới các chuyên gia đầu mối trong các ngành khác nhau trên toàn thế giới thay vì ở mỗi nước. Các chuyên gia đầu mối không nhất thiết phải là người có địa vị cao hay là có thành tựu khoa học lớn, mà là những người hiểu biết về lĩnh vực chuyên môn, có khả năng liên kết các chuyên gia khác trong cùng ngành. Trong khi đó, Tiến sĩ Võ Công Duẩn cho rằng tùy vị trí và lĩnh vực chuyên môn, các nhà khoa học Việt kiều có thể đóng góp bằng việc giảng dạy, đào tạo nguồn nhân lực trong nước, tư vấn nâng cao chất lượng giáo dục, hoặc kết nối với các doanh nghiệp trong nước để thương mại hóa các kết quả nghiên cứu, đưa vào sản xuất và xuất khẩu ra thế giới.