Không ở đâu cuộc Chiến tranh Lạnh lại nóng hơn dưới lớp băng vĩnh cửu của vùng Bắc Cực. Không ở đâu lại nguy hiểm hơn ở độ sâu thăm thẳm của đại dương. Cách xa đất liền, các siêu cường rình mò nhau ở những cự li ngắn.
Các tàu ngầm Mỹ thậm chí thâm nhập vào hải cảng của Liên Xô, theo dõi đối thủ và do thám dưới đáy biển. Liên Xô phải chống chọi với 3 đối thủ: Thiên nhiên, người Mỹ và kỹ thuật của mình. Đó là một cuộc chiến với những mất mát khủng khiếp. Hai siêu cường đã nhiều lần mất tàu ngầm không phải vì tai nạn hạt nhân. Cũng không rõ có bao nhiêu vụ va chạm tàu ngầm dưới đáy biển. Ước đoán phải có hàng chục vụ như vậy.
Kỳ I: Cuộc chạy đua phát triển tàu ngầm
Trong Chiến tranh thế giới thứ 2, có tới 30.000 binh sĩ trong tổng số 40.000 binh sĩ các đội tàu ngầm Đức đã bị chết, trên 660 tàu ngầm bị đánh đắm. Nước Đức đã không thắng cuộc chiến tranh bằng tàu ngầm và cái chết dưới nước thật tang thương. Tuy nhiên, Mỹ và Liên Xô đã không ngần ngại tiếp tục cuộc Chiến tranh Lạnh với kỹ thuật Đức mà họ tịch thu được, dù Đức đã thất bại. Với tư cách là công cụ gián điệp, tàu ngầm xem chừng khó nhận biết hơn và khó bắn hơn là máy bay hoặc tên lửa, mặc dù những kỹ thuật này cũng được ưa chuộng.
John Pina Craven, kỹ thuật viên trưởng của Hải quân Mỹ.
|
Tàu ngầm lớp 21 của Đức với ống thông hơi có thể lặn nhiều ngày và khi ở ngầm dưới nước thì chạy nhanh hơn ở trên mặt nước. Nó được coi là tàu ngầm thực sự đầu tiên, cho dù chiếc tàu chạy ngầm dưới nước đầu tiên là của Mỹ và bằng gỗ. Ngay lập tức Liên Xô cũng tham gia cuộc chơi, từ loại tàu ngầm lớp 21 của Đức, Liên Xô cải tiến thành tàu ngầm 613.
Năm 1954, chiếc tàu ngầm Mỹ USS 571 Nautilus được hạ thủy, đây là loại phỏng theo tàu 21 của Đức chạy bằng năng lượng nguyên tử, nó có thể ở dưới nước hàng tháng trời và phải 20 năm mới cần tới những thanh nhiên liệu mới. Năm 1959, chiếc tàu ngầm đầu tiên loại này xuất hiện ở Bắc Cực. Dưới lớp băng vĩnh cửu thì hầu như không thể xác định được vị trí của tàu ngầm và Bắc Cực kéo dài tới tận bờ biển Liên Xô, tức là nó có thể bí mật chạy tới bờ biển Liên Xô mà khó bị phát hiện.
Ban đầu, tàu được trang bị vũ khí có cánh điều khiển giống như bom bay V1 của Đức với đầu đạn nguyên tử. Nhưng muốn phóng nó, tàu ngầm phải nổi lên trên mặt nước, sẽ bị lộ và có thể bị tấn công. John Pina Craven, kỹ thuật viên trưởng của Hải quân Mỹ và người đứng đầu chương trình tên lửa Polaris, trong đó thử nghiệm việc phóng tên lửa hạt nhân từ tàu, đã tìm cách lắp tên lửa hạt nhân vào tàu ngầm. Hải quân Mỹ tỏ ra rất phấn khởi, vì giờ đây họ cũng có tên lửa hạt nhân chứ không chỉ không quân mới có.
Để làm điều đó, 4 tàu ngầm tiêm kích được cưa ngang và đằng sau tháp được gắn thêm bộ phận mang theo tên lửa hạt nhân. Từ đó, mỗi tháng có thêm một tàu ngầm mới được chế tạo. Sự cân bằng trong răn đe hạt nhân được dựa vào việc mỗi bên đều có thể bị tổn thương nên ngăn cản các bên muốn tự mình tiến hành cuộc tấn công trước tiên. Nhưng Craven cho biết, cũng có những người muốn vươn tới sự trội hơn tuyệt đối, vươn tới một cuộc chiến tranh nguyên tử có thể thắng được. Ví dụ như Tổng thống Mỹ Ronald Reagan, người muốn có một hệ thống phòng thủ tên lửa từ trên vũ trụ, nhằm chấm dứt sự cân bằng về khả năng răn đe và có thể tạo điều kiện cho một cuộc chiến tranh tấn công, vì nếu được vậy, nước Mỹ sẽ không thể bị tổn thương nữa.
Tàu ngầm K-3, tàu ngầm nguyên tử đầu tiên của Liên Xô. |
Năm 1959, với chiếc K-3, Liên Xô đã có chiếc tàu ngầm nguyên tử đầu tiên của mình. Những thế hệ tàu ngầm thứ hai và thứ ba đã có trình độ kỹ thuật tốt hơn, không thua kém tàu ngầm Mỹ và cũng được những người có trình độ hơn điều khiển. Trong thời gian này, Mỹ bắt đầu lắp đặt "Sosus", một loại "rệp", một hệ thống micrô ở đáy biển để sớm phát hiện khi tàu ngầm Liên Xô xuất hiện, vì vậy họ nắm được vị trí di chuyển của tàu ngầm Liên Xô.
Đầu năm 1968, chỉ trong vòng vài tuần lễ đã có 2 tàu ngầm bị đắm, một chiếc của Liên Xô và một chiếc của Mỹ. Điều gì thực sự xảy ra khi đó, cho tới giờ vẫn nằm trong vòng bí ẩn. Nhiều người đã đi sâu nghiên cứu, hỏi các nhân chứng để tìm hiểu và viết thành sách như cuốn "Scorpion Down" của nhà báo quân sự Ed Offley, hoặc như nhà làm phim Dirk Pohlmann đã làm một bộ phim tài liệu dài với tiêu đề "Cái chết dưới đáy biển sâu - sự trả đũa của các siêu cường". Tuy nhiên, nhiều ý kiến được đưa ra vẫn là giả thiết. Cả hai bên Nga và Mỹ đều im lặng về các sự cố này.
Bà Barbara Foli Lake, vợ của thủy thủ Vernon Mark Foli bị chết trong tàu Scorpion.
|
Trong bộ phim "Cái chết dưới đáy biển sâu - sự trả đũa của các siêu cường", bà Barbara Foli Lake, vợ của Vernon Mark Foli, một thủy thủ xấu số trong chiếc tàu ngầm Mỹ bị đắm nói: "Tôi rất sợ nghe hải quân nói, vì không biết điều đó có phải sự thật không. Điều này sẽ ám ảnh tôi tới chết, vì tôi không biết điều gì đã xảy ra".
Bà Irina Schurawina, vợ thuyền trưởng Alexander Schurawin xấu số nói: "Người ta cấm ngặt chúng tôi nói tới sự cố này. Hãy im mồm, chẳng có điều gì xảy ra cả. Hãy cầu Chúa phù hộ cho các người, nếu các người nói gì về việc đó". Phải chăng vào năm 1968, thế giới đang đứng bên bờ vực cuộc chiến tranh thế giới thứ ba? Khi tàu ngầm mang vũ khí nguyên tử của hai bên bị đắm và có thể đã bị đánh đắm?
Vũ Long (Tổng hợp theo truyền hình và báo chí Đức)
Đón đọc kỳ II: Vì sao chiếc tàu ngầm K-129 bị đắm?