Trong đó, giáo dục đại học đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật. Tự chủ đại học trở thành xu thế tất yếu, nhu cầu tự thân của trường đại học, được xem là chìa khóa nâng cao chất lượng đào tạo và chất lượng đầu ra, việc làm cho sinh viên…
Thí điểm tự chủ đạt kết quả tích cực
Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Văn Phúc cho biết: Nghị quyết 29/NQ-TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo được ban hành vào năm 2013; đến năm 2014 Chính phủ ban hành Nghị quyết số 77/NQ-CP thí điểm đổi mới các cơ sở giáo dục đại học.
Đến nay, Chính phủ đã phê duyệt cho 23 trường thí điểm thực hiện tự chủ. Đây là đợt thí điểm lớn nhất từ trước đến nay, tự chủ trên 3 phương diện là: Chuyên môn học thuật, tổ chức nhân sự bộ máy và tự chủ về tài chính.
Sau 3 năm thí điểm (2014-2017), mô hình thí điểm tự chủ bước đầu được đánh giá tích cực, các cơ sở giáo dục đại học đã có những thành tựu nhất định và được xã hội công nhận. Các trường đại học đã chủ động mở ngành và phát triển chương trình đào tạo theo nhu cầu xã hội, phương pháp và nội dung giảng dạy tiếp cận chuẩn quốc tế.
Số đề tài khoa học công nghệ được phê duyệt, công trình được công bố của các trường tự chủ tăng lên đáng kể. Về tổ chức bộ máy, các trường chủ động hơn trong thành lập mới, sáp nhập, chia tách, giải thể, nâng cấp các đơn vị trong trường. Về tài chính, tổng thu giai đoạn sau tự chủ tăng 16,6% so với trước.
Qua kết quả thí điểm của 23 cơ sở đại học, Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo kiến nghị Quốc hội sửa đổi, bổ sung Luật Giáo dục Đại học nhằm thể chế hóa chính thức những chủ trương, chính sách đã thực hiện trong những năm qua, vì thời gian thực hiện thí điểm tự chủ đã hết.
Ông Nguyễn Đắc Hưng, Vụ trưởng Vụ Giáo dục và đào tạo, Dạy nghề (Ban Tuyên giáo Trung ương) cho rằng: Thời gian đổi mới 5 năm của ngành giáo dục không dài nhưng kết quả tích cực có thể nhìn nhận thông qua 5 chỉ số.
Đó là, trước khi thực hiện Nghị quyết 29, Việt Nam chưa có trường nào nằm trong danh sách 1000 trường đại học trên thế giới thì sau 5 năm, Việt Nam đã có 2 trường đứng ở nhóm thế giới; ở nhóm các trường trong khu vực châu Á chỉ có từ 1 -2 trường, đến nay có nhiều trường trong nhóm 400 - 300 châu Á.
Một số ngành, lĩnh vực đào tạo đã so sánh được với các trường đại học lớn trên thế giới và khu vực. Chỉ số thứ hai, 84% sinh viên ra trường có việc làm sau 12 tháng. Chỉ số thứ ba là số công trình nghiên cứu được công bố trong nước và quốc tế tăng gấp đôi.
Chỉ số thứ tư, sự chuyển biến về nhận thức, hành động trong các trường đại học, chủ trương tự chủ của Chính phủ thực hiện Nghị quyết 29 là hoàn toàn đúng đắn, cho phép tạo nên cuộc cạnh tranh lành mạnh trong khối các trường đại học toàn quốc. Cuối cùng, công tác quản lý đối với chất lượng đào tạo đại học và sau đại học được quản lý chặt chẽ hơn thông qua việc tiếp cận dần với chất lượng, tiêu chuẩn của quốc tế.
Đồng quan điểm trên, Hiệu trưởng Trường Đại học Ngoại thương Bùi Anh Tuấn nhấn mạnh: 5 năm qua, có thể thấy, thành tựu lớn nhất là giáo dục đại học đáp ứng yêu cầu tốt hơn về số lượng và chất lượng.
Cụ thể, tiếp cận giáo dục đại học của người dân được nâng cao, đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động và việc làm tốt hơn. Ở một số ngành nghề đào tạo, nhân lực không chỉ đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn đáp ứng nhu cầu khu vực và quốc tế. Vấn đề chuyển giao công nghệ và tri thức mới thời gian qua cũng làm tốt.
Theo ông Bùi Anh Tuấn, những kết quả đạt được là nhờ đổi mới giáo dục đại học triển khai hiệu quả, quyết liệt theo tinh thần Nghị quyết 29. Giáo dục đại học có sự thay đổi đặc biệt, quan tâm tới cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao trong điều kiện mới, đặc biệt nâng cao chất lượng, số lượng đội ngũ các cơ sở, nhất là công tác kiểm định được chú trọng quan tâm. Một điều không thể phủ nhận là tự chủ đại học đã tạo ra một sức sống mới giúp các trường nâng cao chất lượng, hướng tới cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao cho thị trường lao động.
Bên cạnh những kết quả đạt được, khi thực hiện tự chủ, các trường cũng gặp phải nhiều khó khăn, vướng mắc cần được tháo gỡ. Cụ thể là việc thiếu quy định và định nghĩa cụ thể về tự chủ, quyền của các trường đại học trong việc xác định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của trường.
Hệ thống văn bản pháp quy, cơ chế, chính sách về thực hiện tự chủ đại học còn thiếu đồng bộ, chưa thống nhất. Điều kiện tự chủ mới chỉ tiếp cận chủ yếu ở góc độ về tài chính, chưa tính đến năng lực chuyên môn và năng lực tổ chức quản lý của cơ sở đào tạo. Vấn đề tổ chức quản trị tại các cơ sở đại học thí điểm tự chủ vẫn còn nhiều tranh cãi…
Tạo hệ thống chính sách, pháp luật đồng bộ
Thứ trưởng Nguyễn Văn Phúc cho biết: Hiện nay, vấn đề cần thay đổi mạnh mẽ nhất để mở rộng quyền tự chủ cho các trường nằm trong những quy định liên quan đến chuyên môn học thuật. Tuy nhiên, khối hoạt động của cơ sở giáo dục đại học không chỉ có những luật trực tiếp liên quan đến các cơ sở giáo dục đại học, mà còn là đối tượng điều chỉnh bởi các quy định pháp luật khác.
Ví dụ, hiện nay các cơ sở công lập được điều chỉnh bởi Luật Viên chức, Luật Công chức…; hay những quy định về tài chính, quản lý tài sản trong các trường công lập đang bị chi phối bởi Luật Đầu tư công, Luật Quản lý tài sản, Luật Tài chính công… Trong đó, có những nội dung phù hợp trong xu thế tự chủ đại học nhưng cũng có những điểm chưa phù hợp cần bổ sung, sửa đổi.
Sắp tới, khi sửa đổi, bổ sung Luật Giáo dục đại học cần tạo ra hệ thống chính sách, pháp luật đồng bộ nhằm thúc đẩy các trường đại học đẩy mạnh tự chủ và nâng cao chất lượng đào tạo.
Tiếp nữa, năng lực tự chủ, năng lực quản trị của trường đại học phải được nâng lên một bước. Rất nhiều việc mà các cơ sở giáo dục đại học phải tự làm và tự chịu trách nhiệm. Do đó, các trường phải có năng lực quản trị tốt để hội nhập với khu vực và thế giới.
Vì vậy, cần có thời gian để các cơ sở giáo dục đại học chuẩn bị về năng lực, về đội ngũ. Hy vọng, sau khi Luật Giáo dục đại học sửa đổi, bổ sung được thông qua, những vướng mắc của các cơ sở giáo dục đại học sẽ được tháo gỡ.
Thứ trưởng Nguyễn Văn Phúc chia sẻ: Trong Dự thảo Luật Giáo dục đại học sửa đổi bổ sung trình Quốc hội để thông qua năm 2018, nội dung tự chủ đại học so với Luật hiện hành năm 2012 được làm rõ hơn. Điều 32 đã có quy định về tự chủ đại học gồm những nội dung gì và bao gồm cả trách nhiệm giải trình.
Ngoài ra, còn một số điều khác liên quan đến các vấn đề cụ thể, ví dụ như: Tự chủ về chuyên môn học thuật, về tuyển sinh, mã ngành đào tạo, nghiên cứu khoa học, hợp tác quốc tế… Nội dung tự chủ nhân sự bộ máy đã quy định chi tiết hơn.
Tự chủ tài chính, sử dụng tài sản được quy định thể chế hóa trong Nghị quyết 77//NQ-CP của Chính phủ về thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập, các trường đã thí điểm và đạt được kết quả tích cực.
Trong Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung cũng đã có điều chỉnh đảm bảo công bằng giữa các loại hình giáo dục đại học. Về trường tư thục đã có bổ sung quy định liên quan đến tự chủ học thuật, không phân biệt giữa các loại hình sở hữu, trường công - trường tư, chỉ căn cứ vào điều kiện và mô hình tự chủ, năng lực đáp ứng…
Về phía trường đại học, ông Bùi Anh Tuấn, Hiệu trưởng Trường Đại học Ngoại thương bày tỏ: Các cơ sở giáo dục đều mong muốn sau khi Luật Giáo dục Đại học sửa đổi được ban hành, các bộ, ngành cùng tham gia chứ không phải trách nhiệm của riêng Bộ Giáo dục và Đào tạo, để tạo sự đồng bộ trong quản lý và vận hành. Bộ Giáo dục và Đào tạo có thể nghiên cứu, hỗ trợ các nhà trường đưa ra mô hình quản trị đại học khác nhau, các nhà trường nghiên cứu và học tập.
Ông Phạm Huy Dũng, Phó Chủ tịch Hội đồng quản trị Trường Đại học Thăng Long cho rằng: Luật Giáo dục đại học năm 2012 có một số điểm cần sửa đổi, bổ sung để phát huy vai trò của hội đồng trường thực chất hơn, thực quyền hơn, nhằm đảm bảo được quá trình tự chủ. Khi giao quyền tự chủ cho các trường, phải có cơ chế cho hội đồng trường, vì hội đồng trường là đại diện cao nhất cho nhà trường, phải có thực quyền để cùng với Ban Giám hiệu nhà trường thực hiện tốt quyền tự chủ.
Để đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, vấn đề quản lý nhà nước đã thay đổi mạnh theo hướng từ tiền kiểm sang hậu kiểm, thể hiện trong Nghị quyết số 77 và sửa đổi, bổ sung Luật Giáo dục Đại học lần này.
Theo ông Phạm Huy Dũng, trước đây, các cơ sở giáo dục đại học phải xin phép thì bây giờ sẽ được tự chủ. Đi liền với đó là các trường tăng cường công khai, minh bạch, giải trình, tăng trách nhiệm. Cơ quan quản lý nhà nước sẽ tăng cường thanh tra, kiểm tra, hậu kiểm bảo đảm cam kết công khai minh bạch đúng theo nội dung mà nhà trường đã cam kết, đảm bảo lợi ích tốt nhất của người học.
Ngoài ra, các cơ quan chức năng cần xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch giáo dục đại học để phát triển xứng tầm trong giai đoạn mới; xây dựng quy chuẩn, tiêu chuẩn của các trường - đây là công cụ quan trọng trong quản lý nhà nước để nâng cao chất lượng giáo dục đại học, góp phần vào thành công của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.