10 năm đổi mới giáo dục - Bài 1: Những chuyển biến rõ nét  

Năm 2023 đánh dấu 10 năm ngành giáo dục và đào tạo triển khai Nghị quyết số 29-NQ/TW về Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, với điểm nhấn nổi bật là việc thể chế, chính sách về giáo dục và đào tạo cơ bản được hoàn thiện, tạo hành lang pháp lý quan trọng cho công cuộc đổi mới... Để triển khai thành công Nghị quyết trong giai đoạn tiếp theo, rất cần những đòn bẩy để Nghị quyết 29 thực sự đi vào cuộc sống.

Sau 10 năm đổi mới căn bản toàn diện giáo dục, thể chế, chính sách về giáo dục cơ bản được hoàn thiện. Quy mô trường, lớp tăng lên ở các cấp học, bậc học; đội ngũ giáo viên cho công cuộc đổi mới đã thấm nhuần.  

Quy mô tăng,  chất lượng được cải thiện

Huyện Điện Biên (tỉnh Điện Biên) là địa phương đã gặt hái nhiều thành tựu sau 10 năm thực hiện Nghị quyết 29.  Huyện đã xây dựng các phòng học từ chương trình kiên cố hoá với tổng số tiền trên 12 tỷ đồng. Cùng với việc huy động xã hội hoá, đến nay, toàn huyện đã kiên cố hoá được 78,8% số phòng học và vẫn còn gần hơn 20% phòng học bán kiên cố, phòng học tạm.

Tăng cường chỉ đạo công tác xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia, xem đây là giải pháp tổng thể để nâng cao chất lượng giáo dục, đến nay, toàn huyện Điện Biên có 64/70 trường đạt chuẩn quốc gia, trong đó có 33 trường đạt chuẩn quốc gia mức độ 2. So với năm 2013, tăng 5 trường đạt chuẩn quốc gia và tăng 26 trường đạt chuẩn quốc gia mức độ 2.

Theo ông Nguyễn Văn Đoạt, Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) Điện Biên, kinh phí đầu tư cho giáo dục hiện nay được tăng cường. Giai đoạn 2013 - 2023, tổng kinh phí sự nghiệp bố trí cho các đơn vị để thực hiện các nhiệm vụ đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT trong toàn tỉnh là trên 397 tỷ đồng. Công tác xã hội hoá giáo dục được đẩy mạnh và có hiệu quả thiết thực. Vai trò, vị trí của giáo dục được coi trọng đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Điện Biên hoàn thành phổ cập giáo dục trẻ mầm non cho trẻ 5 tuổi vào năm 2015; tiếp tục duy trì chất lượng phổ cập những năm tiếp theo. Tỷ lệ trường mầm non đạt chuẩn quốc gia đạt 73,37% (năm học 2022 - 2023), tăng 43,07% so với năm học 2013 - 2014.

Video ông Thái Văn Thành, Giám đốc Sở GD&ĐT Nghệ An chia sẻ: 

Thể hiện rõ sự hoàn thiện của thể chế, chính sách và phân cấp về địa phương, ông Thái Văn Thành, Giám đốc Sở GD&ĐT Nghệ An, Đại biểu Quốc hội tỉnh Nghệ An cho biết: “Trong 10 năm qua ngành giáo dục đào tạo đạt được kết quả toàn diện trên tất cả các lĩnh vực. Đảng, Quốc hội, Chính phủ  ban hành các cơ chế chính sách, các nghị quyết, từ đó địa phương cùng ban hành các cơ chế chính sách. Riêng Tỉnh ủy Nghệ An đã ban hành Nghị quyết, Hội đồng nhân dân tỉnh ban hành Nghị quyết 75 với kế hoạch, đề án để triển khai thực hiện chương trình, sách giáo khoa mới. Nghệ An đổi mới một cách toàn diện hệ thống giáo dục; cơ sở vật chất trường, lớp từng bước được đầu tư đồng bộ. Chất lượng giáo dục được nâng lên thông qua nhiều hoạt động bồi dưỡng giáo viên tập trung vào phát triển phẩm chất, năng lực. Việc xây dựng một số đề án, mô hình giáo dục đã mở ra những chính sách phù hợp với từng địa bàn”.

Chú thích ảnh
Một giờ học toán của học sinh ở Hà Nội. Ảnh: TTXVN

Không chỉ hoàn thiện về thể chế, chính sách, đổi mới giáo dục còn thể hiện ở việc thu hẹp khoảng cách vùng miền. Cụ thể, sau 10 năm thực hiện Nghị quyết 29 ở Lào Cai, chất lượng giáo dục ở các cấp học đã có nhiều chuyển biến rõ nét. Khoảng cách về chất lượng giáo dục giữa vùng thuận lợi với vùng khó khăn được thu hẹp. Kết quả học sinh đạt giải trong các cuộc thi được duy trì bền vững, tăng so với giai đoạn trước. Các hoạt động đổi mới được triển khai đồng bộ, đạt kết quả nổi bật như giáo dục STEM, nghiên cứu khoa học kĩ thuật trong học sinh.

Bà Dương Bích Nguyệt, Giám đốc Sở GD&ĐT Lào Cai cho biết: “Nhiều tổ chức, cá nhân tích cực tham gia công tác xã hội hóa giáo dục. Quy mô giáo dục và đào tạo tăng nhanh, mạng lưới trường lớp tiếp tục được rà soát, điều chỉnh đáp ứng nhu cầu học tập và nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho con, em các dân tộc trên địa bàn tỉnh; nhất là ở vùng cao, biên giới, vùng dân tộc thiểu số. Đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục, giáo viên được tăng cường về số lượng, nâng cao chất lượng, từng bước thay đổi tư duy theo hướng chủ động, tích cực, sáng tạo, tâm huyết, trách nhiệm”.

Chất lượng giáo dục toàn diện đã có bước tiến bộ vững chắc. Giáo dục mầm non ở Lào Cai tiếp tục được quan tâm đầu tư; chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ được nâng lên rõ rệt. Giáo dục tiểu học ổn định về số lượng, quy mô; chất lượng giáo dục toàn diện được nâng lên qua việc áp dụng nhiều mô hình giáo dục mới.

Chất lượng giáo dục THCS, THPT ở Lào Cai được nhận định vững chắc hơn. Tỷ lệ học sinh chưa đạt chuẩn về kiến thức giảm, tỉ lệ học sinh khá, giỏi tăng. Công tác phổ cập giáo dục được duy trì và nâng cao chất lượng. Công tác giáo dục dân tộc có nhiều chuyến biến tích cực.

“Cơ sở vật chất trường, lớp học tiếp tục được đầu tư và từng bước được tăng cường theo hướng kiên cố hoá, hiện đại hóa và chuẩn hóa. Cơ bản các trường học vùng cao có cơ sở vật chất tốt, cảnh quan đẹp, môi trường giáo dục an toàn, hoạt động giáo dục sôi nổi, chất lượng,... đã góp phần quan trọng nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh”, bà Dương Bích Nguyệt nói.  

Việc kiểm tra thi và đánh giá cũng là nội dung quan trọng của việc triển khai Nghị quyết 29.

Phó Giám đốc Sở GD&ĐT Ninh Thuận Nguyễn Anh Linh cho biết: “Sau 10 năm thực hiện Nghị quyết 29, quy mô và cơ cấu giáo dục chuyến dịch đúng hướng, đảm bảo công bằng xã hội trong giáo dục và cơ hội học tập suốt đời cho mỗi người dân. Việc mở rộng cơ hội đi học đúng tuổi các cấp học được thể hiện rõ ở cả hai tiêu chí tỷ lệ đi học chung và tỷ lệ đi học đúng tuổi. Từ “điểm trũng” giải học sinh giỏi quốc gia, đến nay, số giải học sinh giỏi quốc gia đã có nhiều cải thiện”.

Ở bậc đại học, việc tuyển sinh và tổ chức đào tạo ở các trình độ của giáo dục đại học tăng mạnh về quy mô, chất lượng đào tạo được nâng cao, cơ bản đáp ứng nguồn nhân lực trình độ cao, nâng cao năng lực khoa học công nghệ, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng và nhu cầu học tập của người dân; góp phần thúc đẩy nền kinh tế đất nước từng bước phát triển bền vững.  

Theo thống kê của Bộ GD&ĐT, quy mô đào tạo đại học tăng trung bình 4,4% trong giai đoạn 2013-2022. Điều này đã góp phần tăng tỷ lệ dân số trong độ tuổi 18 đến 22 được tiếp thu giáo dục đại học từ 25,2% (năm 2013) lên 35,4% (năm 2021). Tính bình quân trong cả giai đoạn 10 năm (2013 - 2023) tỷ lệ sinh viên học đại học tăng 6,1%.

Cùng với đó, chương trình đào tạo giáo dục đai học đã được chú trọng, xây dựng theo hướng đa dạng, mềm dẻo giúp củng cố kiến thức, phát triển năng lực, phẩm chất cho sinh viên nhằm đáp ứng tiêu chuẩn đầu ra theo quy định của Khung trình độ Quốc gia và chuẩn chương trình đào tạo. Nghiên cứu khoa học trong các cơ sở giáo dục đại học tăng mạnh và đạt được nhiều kết quả nổi bật.

Nhìn lại quá trình này, Chủ tịch Hội đồng trường Trường Đại học Hồng Đức Lê Viết Báu cho hay: Giai đoạn 2013 - 2023, hoạt động nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc tế của Nhà trường có bước phát triển vượt bậc, được triển khai đồng bộ, đa lĩnh vực. Trong đó, hoạt động nghiên cứu bước đầu đã hình thành được một số nhóm nghiên cứu liên ngành, đơn ngành để thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ các cấp.

Ở quy mô toàn quốc, sau 10 năm thực hiện Nghị quyết 29, giáo dục Đại học đã có nhiều kết quả tích cực, cơ bản đạt được mục tiêu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đã đặt ra. Trong đó công tác tự chủ đại học đã đạt được những bước tiến quan trọng, đặc biệt là tự chủ về chuyên môn, học thuật, ra đời nhiều ngành đào tạo mới, đáp ứng nhu cầu đòi hỏi của thực tế.

Theo PGS.TS Nguyễn Thu Thủy, Vụ trưởng Vụ Giáo dục đại học, Bộ GD&ĐT: Triển khai thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW, Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về giáo dục đại học được xây dựng, sửa đổi, bổ sung ngày càng hoàn thiện, nhất là việc ban hành Luật Giáo dục đại học và các văn bản quy định chi tiết thi hành, đã tạo hành lang pháp lý cho hoạt động quản lý và triển khai hoạt động đào tạo các trình độ đại học hiệu quả, tăng cường kiểm soát và nâng cao chất lượng. Đặc biệt là quy định về đẩy mạnh quyền tự chủ và trách nhiệm giải trình của các cơ sở giáo dục đại học là quy định nổi bật trong đổi mới cơ chế quản lý trong giáo dục đại học trong giai đoạn vừa qua, đem lại sự thay đổi mạnh mẽ và tạo ra diện mạo mới hệ thống cơ sở giáo dục đại học.

Các cơ sở giáo dục đại học tự chủ về chuyên môn, học thuật, từng bước tự chủ về tổ chức bộ máy và tài chính, tài sản đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ, mang lại nhiều chuyển biến tích cực cả về nhận thức lẫn công tác tổ chức thực hiện, đúng với chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.

Tạo sự tự chủ cho địa phương gắn với trách nhiệm giải trình 

Một trong những thành công của công cuộc đổi mới giáo dục 10 năm qua là cơ chế chính sách của Đảng và Nhà nước. Từ đó, mở cơ chế chính sách, tạo điều kiện cho địa phương chủ động, tự chủ, sáng tạo trong việc thực hiện chương trình giáo dục. Đội ngũ giáo viên được phát huy tính chủ động, sáng tạo trong việc thiết kế cũng như là tổ chức hoạt động phát triển phẩm chất, năng lực cho học sinh là việc rất quan trọng. Thành công nổi bật tiếp theo là việc đào tạo đội ngũ.

“Có thể nói là từ việc thiết kế hoạch, chương trình cho đến tổ chức thực hiện để có điều kiện đảm bảo cho công tác bồi dưỡng đội ngũ giáo viên được nâng lên. Bởi đội ngũ quyết định chất lượng giáo dục”, ông Thái Văn Thành Giám đốc Sở GD&ĐT Nghệ An, Đại biểu Quốc hội tỉnh Nghệ An  phân tích từ thực tê địa phương.

Chú thích ảnh
Sinh viên Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Ảnh: TTXVN

Tiếp đó, thể hiện rõ nét nhất của đổi mới giáo dục là triển khai Chương trình giáo dục phổ thông 2018 theo định hướng phát triển phẩm chất, năng lực của người học.  

“Chúng ta thay đổi tư duy, thay đổi cách làm giáo dục. Trước đây, phương pháp dạy chủ yếu nặng về truyền thụ kiến thức, còn nay là phát triển phẩm chất, năng lực của học sinh. Chất lượng của tất cả các cấp học, bậc học được nâng lên thể hiện ở trong những bảng xếp hạng Olympic quốc tế. Uy tín vị thế giáo dục được nâng lên”, ông Thái Văn Thành nói.  

Bộ GD&ĐT đã hoàn thiện dự thảo Đề án trình tổng kết Nghị quyết số 29/NQ-TW. Trong đó, nhận định rõ những thành tựu quan trọng của đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục - đào tạo trong 10 năm qua với những đóng góp to lớn vào việc nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài phục vụ quá trình phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập quốc tế của đất nước.

Ở quy mô toàn quốc, Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Văn Phúc cũng khẳng định thành tựu này:  “Nổi bật là thể chế, chính sách về giáo dục và đào tạo cơ bản được hoàn thiện, tạo hành lang pháp lý quan trọng cho công cuộc đổi mới. Công tác quản lý giáo dục, quản trị nhà trường có chuyển biến tích cực theo hướng tăng cường phân cấp quản lý, giao quyền tự chủ gắn với trách nhiệm giải trình. Hệ thống giáo dục quốc dân cơ bản được hoàn thiện theo hướng mở, liên thông giữa các cấp học, trình độ và giữa các phương thức giáo dục, đào tạo. Quy mô giáo dục và mạng lưới cơ sở giáo dục phát triển, đáp ứng tốt hơn nhu cầu học tập suốt đời của người dân”.  

Theo đánh giá của Bộ Giáo dục và Đào tạo, sau 10 năm, giáo dục Mầm non đã có những bước phát triển về quy mô, chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ. Ở bậc phổ thông, chương trình giiáo dục phổ thông mới được ban hành năm 2018 bảo đảm yêu cầu thay đổi từ truyền thụ kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất của học sinh, tăng cường định hướng nghề nghiệp; thực hiện xã hội hóa trong biên soạn, phát hành sách giáo khoa; chất lượng giáo dục phổ thông đại trà và mũi nhọn được thế giới ghi nhận… Kết quả đào tạo nguồn nhân lực các trình độ theo Khung trình độ quốc gia Việt Nam được nâng lên. Nội dung chương trình đổi mới theo hướng ngày càng hiện đại, thiết thực, tăng thực hành, thực nghiệm. Giáo dục nghề nghiệp ngày càng thu hút nhiều người học. Giáo dục đại học có dịch chuyển tích cực về cơ cấu ngành nghề, chất lượng sinh viên tốt nghiệp từng bước đáp ứng tốt hơn yêu cầu của thị trường lao động. Tự chủ đại học được đẩy mạnh; nghiên cứu khoa học, hợp tác quốc tế có chuyển biến tích cực...

Công tác thi, kiểm tra, đánh giá chất lượng giáo dục phổ thông được đổi mới. Công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống, kỹ năng sống, giáo dục thể chất cho học sinh, sinh viên tiếp tục được quan tâm hơn. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục cơ bản được chuẩn hóa, chất lượng ngày càng nâng cao. Cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học được cải thiện, từng bước đáp ứng yêu cầu thực hiện chương trình giáo dục, đào tạo mới và ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, dạy học.

Tuy nhiên, cho rằng một số mục tiêu, yêu cầu đặt ra tại Nghị quyết 29 đến nay vẫn chưa đạt được, GS.TS Nguyễn Văn Minh, Hiệu trưởng Đại học Sư phạm Hà Nội dẫn chứng: Vấn đề “thực học, thực nghiệp”; sự phối hợp thực hiện giữa các Bộ, ngành; vấn đề bảo đảm bình đẳng giữa khu vực giáo dục công lập và ngoài công lập; những giải pháp đột phá đầu tư cho đội ngũ giáo viên...  vẫn còn để ngỏ. Theo GS.TS Nguyễn Văn Minh, vấn đề ở đây là thiếu “người thi công”. "Khi thiết kế đã có nhưng thiếu người thi công thì cũng không thể xây được công trình" - GS.TS Nguyễn Văn Minh phân tích.

Bài 2: Ngành giáo dục chật vật đổi mới

Lê Vân/Báo Tin tức
10 năm đổi mới giáo dục - Bài cuối: Xác định trọng tâm, trọng điểm để bứt phá
10 năm đổi mới giáo dục - Bài cuối: Xác định trọng tâm, trọng điểm để bứt phá

Để đạt được mục tiêu của đổi mới căn bản toàn diện giáo dục cần rất nhiều yếu tố. Trong đó, quan trọng nhất, theo bà Nguyễn Thị Mai Hoa, Phó Chủ nhiệm Ủy ban văn hóa Giáo dục của Quốc hội, ĐBQH tỉnh Đồng Tháp là phải đảm bảo các điều kiện để đổi mới cũng như việc đầu tư trọng tâm, trọng điểm để bứt phá trong đổi mới cũng như đưa Nghị quyết 29 vào cuộc sống.

Chia sẻ:

doanh nghiệp - Sản phẩm - Dịch vụ Thông cáo báo chí Rao vặt

Các đơn vị thông tin của TTXVN