Năm 1977, khi Chiến tranh Lạnh đang bùng nổ, tàu ngầm tấn công chạy bằng năng lượng hạt nhân HMS Swiftsure (S-126) của Hải quân Hoàng gia Anh đã luồn vào trung tâm cuộc tập trận quy mô lớn của Hạm đội Phương Bắc - Liên Xô ở Biển Barents. Tàu ngầm Anh xâm nhập mà không bị phát hiện qua các màn hình theo dõi nhiều lớp của các tàu khu trục hộ tống, tiếp cận sát sạt tàu sân bay Kiev của Liên Xô.
Tàu HMS Swiftsure đã ghi lại những dấu hiệu âm thanh cực kỳ có giá trị và chụp những bức ảnh kính tiềm vọng dưới nước đáng kinh ngạc về thân và chân vịt của tàu sân bay đối phương. Hải quân Liên Xô hoàn toàn không biết gì về sự hiện diện của tàu ngầm tấn công NATO và lượng dữ liệu quý giá mà nó thu thập được.
KỲ 1: THỢ SĂN ĐÁNG SỢ
"Thợ săn" Swiftsure
Sự ra đời của lớp tàu ngầm hạt nhân Swiftsure có thể bắt nguồn từ giữa những năm 1960. Vào thời điểm đó, Hải quân Hoàng gia Anh đang phải đối mặt với mối đe dọa ngày càng tăng từ các tàu ngầm Liên Xô chạy bằng năng lượng hạt nhân và được trang bị vũ khí hạt nhân thường xuyên hoạt động ở Đại Tây Dương. Để đối phó với mối đe dọa đó, Swiftsure được thiết kế bao gồm các cải tiến dựa trên bài học rút ra từ các lớp tàu trước đó, cho phép nó lặn sâu hơn, tốc độ cao hơn và độ ồn bức xạ (radiated noise) thấp hơn.
Được trang bị một lò phản ứng hạt nhân PWR Mk 1 duy nhất và một máy phát điện diesel Paxman Ventura phụ trợ, các tàu ngầm lớp này được trang bị 5 ống phóng ngư lôi 533mm có khả năng phóng ngư lôi Mk 24 Mod 2 Tigerfish và ngư lôi hạng nặng Spearfish, cộng với thủy lôi Stonefish/Sea Urchin. Tên lửa chống hạm UGM-84 Harpoon và Tên lửa tấn công mặt đất UGM-109E Tomahawk (TLAM-E) Block IV sau đó cũng được bổ sung vào kho vũ khí.
Các tàu ngầm lớp SSN Valiant và Churchill trước đây của Anh được thiết kế với phần máy móc gắn trên bè phao để cách ly các nguồn tiếng ồn, rung động cơ và điện khỏi thân tàu và giảm tiếngồn bức xạ tổng thể của tàu ngầm. Với chế độ đẩy khác nhau - cao, trung bình và thấp - bè bị khóa ở tốc độ cao (khi tàu cơ động lẩn tránh, đánh chặn mục tiêu, v.v.), nhưng ở tốc độ thấp và vừa phải, bè sẽ cô lập máy móc (tuabin, máy phát điện, máy bơm, v.v.) khỏi thân tàu. Đối với tốc độ rất thấp hoặc tốc độ "leo", một động cơ điện được sử dụng và còn có một động cơ nhỏ có thể được dùng trong trường hợp mất động cơ đẩy chính. Những thay đổi thiết kế được sử dụng trên lớp Swiftsure còn bao gồm bè được cải tiến hơn nữa, khiến cơ chế khóa tốc độ cao không còn cần thiết.
Một tính năng kỳ lạ khác của lớp tàu Swiftsure là sự ra đời của động cơ phản lực bơm. Loại động cơ đẩy này, trước kia tương đối mới nhưng hiện đã phổ biến trên hầu hết các lớp tàu ngầm, mang lại một số lợi thế so với động cơ chân vịt tiêu chuẩn trong nhiều tình huống chiến đấu trên biển. Những lợi ích bao gồm động cơ đẩy yên tĩnh hơn khi hoạt động cùng tốc độ so với chân vịt tiêu chuẩn, tăng hiệu quả hoạt động của tàu. Mặt khác, cụm máy bơm phản lực tương đối nặng và phức tạp, có thể làm tăng lực cản với tàu ngầm.
Tuy nhiên, chiếc tàu dẫn đầu của lớp, cũng là nhân vật chính của câu chuyện này, HMS Swiftsure (S-126), lại được trang bị một chân vịt tiêu chuẩn không có mái che.
Tổng cộng, sáu thân tàu lớp Swiftsure đã được hoàn thành, gồm: HMS Swiftsure (S-126), HMS Sovereign (S-108), HMS Superb (S-109), HMS Spectre (S-104), HMS Spartan (S-105), và HMS Splendid (S-106). Swiftsure được đưa vào hoạt động năm 1973, và Spectre, chiếc tàu cuối cùng của lớp, đã ngừng hoạt động vào năm 2010.
Kẻ bị săn "khổng lồ"
Kiev là chiếc tàu dẫn đầu của lớp tàu sân bay này, được Liên Xô gọi là Đề án 1143 Krechet (NATO định danh là lớp Kiev). Chiếc tàu chiến này được đặt lườn vào ngày 21/1/1970 tại Nhà máy đóng tàu Biển Đen ở Nikolayev, trên mũi phía Nam bán đảo Mykolaiv, Ukraine, khi đó thuộc Liên Xô. Con tàu gần như hoàn thiện đã được hạ thủy vào ngày 26/12/1972 để trang bị và được đưa vào hoạt động chính thức vào ngày 28/12/1975.
Thiết kế của lớp Kiev gây ngạc nhiên cho nhiều nhà quan sát phương Tây. Là sự kết hợp giữa tàu sân bay trang bị máy bay cất cánh và hạ cánh thẳng đứng (VTOL) và tàu tuần dương tên lửa dẫn đường, các đặc điểm dễ nhận biết nhất của tàu là sàn đáp nghiêng ở mạn trái, một đảo lớn ở mạn phải và một không gian riêng trên mũi tàu với bốn bệ phóng đôi khổng lồ cho tên lửa chống hạm khổng lồ P-500 Bazalt (SS-N-12 Sandbox); tên lửa cho 8 lần nạp lại cũng sẵn sàng. Để phòng không, có hai bệ phóng đôi cho tên lửa đất đối không M-11 Shtorm (SA-N-3 Goblet) và hai bệ phóng đôi khác cho hệ thống phòng thủ điểm Osa-M (SA-N-4 Gecko).
Đối với các mối đe dọa dưới mặt nước, tàu sân bay Kiev mang theo hai bệ phóng tên lửa chống ngầm RPK-1 Vikhr (SUW-N-1/FRAS-1) và hai bệ phóng tên lửa RBU-6000 Smerch-2.
Không có máy phóng, Kiev chỉ vận hành máy bay chiến đấu Yak-38 Forger có khả năng cất cánh/hạ cánh thẳng đứng và trực thăng Ka-25 Hormone. Hai thang máy làm nhiệm vụ di chuyển máy bay giữa nhà chứa máy bay và sàn đáp.
Trong số một lượng lớn các hệ thống điện tử được lắp đặt ở tàu Kiev, bộ định vị sonar là trung tâm trong câu chuyện của chúng ta. Nó bao gồm một sonar tần số thấp (LF) MG-342 Orion (Horse Jaw) gắn trên thân tàu, sonar tần số trung bình (MF) MG-335 Platina và một biến thể sonar độ sâu lớn MG-325 Vega.
Các tàu "chị em" của Kiev là Minsk và Novorossiysk, trong khi tàu Baku (sau này là "Đô đốc Gorshkov") được chế tạo theo thiết kế cải tiến và cấu thành một lớp con riêng biệt.
Kẻ lạ mặt trong cuộc tập trận ở Biển Bắc
Trong Chiến tranh Lạnh, Hải quân Liên Xô thường xuyên trau dồi kỹ năng và hiệu quả chuỗi chỉ huy của mình trong các cuộc tập trận hải quân quy mô lớn, thường phối hợp với tàu ngầm và máy bay. Cuộc tập trận SEVER-77 kéo dài từ ngày 14 đến ngày 22/4/1977. Tàu dẫn đầu và chỉ huy cuộc tập trận là Kiev, vẫn được coi là tàu mới vì vừa được đưa vào hoạt động hai năm trước đó. Thủy thủ đoàn vẫn đang trong quá trình làm chủ tất cả các hệ thống phức tạp trên tàu.
Lực lượng hộ tống mạnh mẽ vòng trong và vòng ngoài của tàu sân bay này bao gồm các tàu tuần dương tên lửa dẫn đường lớp Đề án 1134A Berkut-A (Kresta II) Đô đốc Nakhimov, tàu Nguyên soái Timoshenko, Đô đốc Isakov và tàu khu trục lớp Đề án 61 (Kashin) Smyshleny.
Phần chính của cuộc tập trận diễn ra ở vùng biển quê nhà của Hạm đội Phương Bắc trên Biển Barents, và hạm đội, được hỗ trợ nhiên liệu bởi tàu chở dầu bổ sung lớp Morskoy Proctor Đề án 1559V, Genrikh Gasanov, cũng đã thực hiện một chuyến đi đến quần đảo Lofoten ở biển Na Uy để thực hành quy trình bổ sung trong điều kiện thời tiết rất khắc nghiệt ngoài khơi Na Uy.
Ngay sau khi phát hiện ra các tàu mặt nước của Liên Xô đang tham gia cuộc tập trận, tàu ngầm Anh Swiftsure, chỉ huy bởi thuyền trưởng John Speller, được lệnh ghi lại dấu vết âm thanh của Kiev và thu thập các thông tin tình báo khác. Vì mỗi con tàu có dấu vết âm thanh cụ thể riêng mà người điều hành sonar tinh tường có thể nhận ra, dấu vết của tàu sân bay Kiev là một thông tin rất quan trọng cho phép Hải quân Hoàng gia Anh và các đồng minh nhận ra tàu này nhanh hơn và chính xác hơn.
Xem tiếp kỳ cuối: Kẻ giấu mặt