Về đối tượng áp dụng (Điều 2, Điều 5), một số ý kiến đề nghị cân nhắc kỹ hơn về đơn vị sự nghiệp công lập thuộc UBND cấp tỉnh, đơn vị sự nghiệp thuộc cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh thực hiện việc đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài để thực hiện điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế.
Thường trực Ủy ban về các vấn đề xã hội của Quốc hội cho rằng các địa phương thực hiện đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài theo điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế mà Ủy ban về các vấn đề xã hội khảo sát, lấy ý kiến đều giao cho Trung tâm dịch vụ việc làm thuộc ngành lao động - thương binh và xã hội thực hiện.
Do vậy, đa số Thường trực Ủy ban về các vấn đề xã hội tiếp thu theo hướng quy định đơn vị sự nghiệp đó là Trung tâm dịch vụ việc làm do Chủ tịch UBND cấp tỉnh thành lập; đồng thời, bổ sung nhiệm vụ này cho Trung tâm dịch vụ việc làm tại Điều 38 của Luật Việc làm nhằm bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật, tính liên thông của lao động trong nước – ngoài nước, phù hợp với thực tế triển khai hoạt động này tại các địa phương, không phát sinh thêm tổ chức, bộ máy.
Tuy nhiên, vẫn còn ý kiến đề nghị cân nhắc thêm việc giao cho Trung tâm dịch vụ việc làm vì sẽ phát sinh chi ngân sách, nhân lực của Nhà nước; chưa sát với tinh thần của Nghị quyết của Trung ương về chuyển đổi đơn vị sự nghiệp công, xã hội hóa dịch vụ công và ảnh hưởng tới sự cạnh tranh của doanh nghiệp.
Có ý kiến đề nghị bổ sung làm rõ đối tượng là du học sinh, người đi thăm thân, lao động đi làm việc theo kỳ nghỉ, lao động dịch chuyển trong ASEAN vào dự thảo Luật để thuận lợi trong việc hướng dẫn thực hiện.
Tiếp thu ý kiến đại biểu, Thường trực Ủy ban về các vấn đề xã hội đề xuất chỉnh lý Điều 54 của dự thảo Luật theo hướng khi người lao động thực hiện đăng ký trực tuyến thông tin về hợp đồng lao động, thực hiện các nghĩa vụ theo quy định của Luật này thì cũng được hưởng các quyền lợi của người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.
Đối với các hình thức di chuyển lao động theo quy định của các điều ước quốc tế khác (bao gồm cả di chuyển thể nhân trong ASEAN), Thường trực Ủy ban thấy rằng, Điều 6 của Luật Điều ước quốc tế đã quy định rõ về nguyên tắc áp dụng pháp luật nên vẫn bảo đảm thống nhất của hệ thống pháp luật.
Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân cho rằng: Luật này có chi tiết nói người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng chứ không phải xin đi du lịch rồi ở lại lao động, cần làm rõ nội dung này.
Theo Chủ tịch Quốc hội cũng cần phải phân biệt rõ các chuyên gia đi làm việc ở các nước theo hình thức nào? Nhưng có nhiều hình thức như Hiệp định giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ các nước, cho nên việc chuyên gia đi lao động ở nước ngoài cũng cần làm rõ.
Một số ý kiến đề nghị bổ sung quy định nguyên tắc về việc quản lý lao động khu vực biên giới khi đi lao động ở nước tiếp giáp để có căn cứ cho Chính phủ ban hành Nghị định hướng dẫn chi tiết. Chủ nhiệm Ủy ban về các vấn đề xã hội Nguyễn Thúy Anh cho biết: Qua giám sát, Ủy ban về các vấn đề xã hội đã có kiến nghị về quản lý nhà nước đối với đối tượng lao động này.
Tuy nhiên, đây là vấn đề phức tạp, đan xen giữa các loại hình lao động qua biên giới với các nước láng giềng rất đa dạng gắn với yếu tố lịch sử, văn hóa, ngôn ngữ theo từng địa bàn. Việc bổ sung quy định này vào dự thảo luật đã được Chính phủ, Ban soạn thảo cân nhắc nhiều lần và đã không đưa vào dự thảo Luật khi trình Quốc hội.
Thường trực Ủy ban về các vấn đề xã hội thấy rằng, để tránh khoảng trống pháp lý trong công tác quản lý nhà nước về lao động, vấn đề này cần phải được tiếp tục nghiên cứu, cân nhắc kỹ lưỡng và quy định trong các văn bản phù hợp. Do đó, đề nghị Chính phủ, Ban soạn thảo bổ sung giải trình ý kiến đại biểu Quốc hội về nội dung này.
Về chính sách của Nhà nước về người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng (Điều 4) một số ý kiến đề nghị cần có chính sách đối với đối tượng lao động là người dân tộc thiểu số; bổ sung chính sách tín dụng ưu đãi đối với người thu nhập thấp hoặc gặp khó khăn về chi phí khi đi lao động ở nước ngoài.
Thường trực Ủy ban về các vấn đề xã hội thấy rằng, ngoài quy định về chính sách của Nhà nước tại dự thảo Luật này thì Điều 20 của Luật Việc làm đã quy định chính sách đặc thù đối với lao động là người dân tộc thiểu số, người thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo hoặc hộ bị thu hồi đất nông nghiệp, thân nhân của người có công với cách mạng có nhu cầu đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.
Do đó, Thường trực Ủy ban dự kiến tiếp thu ý kiến ĐBQH theo hướng dẫn chiếu Luật Việc làm và chỉnh lý các nội dung chính sách cho phù hợp. Có ý kiến đề nghị quy định về chính sách bảo đảm bình đẳng giới cần phải được cụ thể hóa hơn trong dự thảo Luật.
Thường trực Ủy ban về các vấn đề xã hội thu theo hướng bổ sung quy định cụ thể vai trò, trách nhiệm của các cơ quan, doanh nghiệp hoạt động dịch vụ và các đơn vị, tổ chức thực hiện đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài để bảo đảm bình đẳng giới tại các điều cụ thể.
Về cấp giấy phép hoạt động dịch vụ (Điều 10), một số ý kiến cho rằng, việc sử dụng khái niệm “vốn chủ sở hữu” là không thống nhất với Luật Doanh nghiệp; có ý kiến đề nghị làm rõ cơ sở nâng vốn chủ sở hữu lên 5 tỷ đồng; có ý kiến cho rằng, quy định nâng điều kiện về người đại diện theo pháp luật từ có kinh nghiệm 3 năm lên 5 năm là chưa thuyết phục.
Tiếp thu ý kiến đại biểu, đa số ý kiến thống nhất chỉ quy định về “vốn điều lệ” để đảm bảo thống nhất với quy định của Luật Doanh nghiệp; đồng ý mức vốn điều lệ không thấp hơn 5 tỷ đồng và giữ quy định về thời gian 5 năm kinh nghiệm đối với người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp dịch vụ vì đây là lĩnh vực kinh doanh có điều kiện và đặc biệt có liên quan trực tiếp đến người lao động với đặc điểm làm việc ở bên ngoài lãnh thổ Việt Nam, nên các quy định về điều kiện đối với doanh nghiệp hoạt động dịch vụ trong lĩnh vực này cần chặt chẽ, cao hơn bình thường là cần thiết.
Tuy nhiên, có ý kiến đề nghị vẫn giữ điều kiện về thời gian kinh nghiệm như hiện hành là 03 năm và nghiên cứu chuyển quy định về “vốn chủ sở hữu” thành điều kiện duy trì nhằm bảo đảm hoạt động của doanh nghiệp.
Phát biểu góp ý về vốn chủ sở hữu, Phó Chủ tịch Quốc hội Phùng Quốc Hiển cho rằng vốn pháp định không được thấp hơn quy định, và vốn điều lệ, vốn chủ sở hữu, vốn tự có sẽ như thế nào? Cần làm rõ khái niệm này.
Một số ý kiến đề nghị quy định cụ thể các quy trình về sơ tuyển lao động, chuẩn bị đào tạo bồi dưỡng kiến thức cần thiết để bảo đảm chất lượng lao động trước khi đi làm việc ở nước ngoài; tránh đào tạo nhiều nhưng số lượng đi thì ít. Tiếp thu ý kiến đại biểu, để khắc phục tình trạng đào tạo, bổ túc kỹ năng nghề… chưa sát với khả năng đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài.
Thường trực Ủy ban về các vấn đề xã hội dự kiến chỉnh lý quy định về chuẩn bị nguồn lao động của dự thảo Luật theo hướng phân định rõ bước sơ tuyển, đào tạo bổ túc kỹ năng nghề nhằm vừa tạo điều kiện thuận lợi, tăng tính chủ động cho doanh nghiệp hoạt động dịch vụ nhưng hạn chế việc lạm dụng và tránh lãng phí xã hội không cần thiết.
Đồng thời, bổ sung quy định giao Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quy định chi tiết, đồng thời, đề nghị Chính phủ, Ban soạn thảo bổ sung kịp thời dự thảo văn bản quy định chi tiết để Quốc hội có cơ sở cho ý kiến khi thông qua. Có ý kiến cho rằng, chính sách đối với người lao động sau khi về nước rất chung chung.
Một số ý kiến đề nghị quy định chính sách, cơ chế hỗ trợ tạo điều kiện để người lao động được tuyển dụng vào doanh nghiệp, đơn vị phù hợp với ngành nghề đã làm tại nước ngoài nhằm phát huy, tránh lãng phí nguồn lực lao động.
Bà Nguyễn Thúy Anh, Chủ nhiệm Ủy ban về các vấn đề xã hội cho rằng, thực tế hiện nay, nhiều tỉnh thành phố trực thuộc Trung ương đã có nghị quyết riêng về hỗ trợ lao động của địa phương đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng trên cơ sở khả năng, điều kiện ngân sách của địa phương. Do vậy, Thường trực Ủy ban cũng sẽ bổ sung quy định về hỗ trợ tạo việc làm trên cơ sở luật hóa thực tiễn này tại địa phương.