Sạt, lở đất ở Việt Nam - Bài cuối: Cần phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, đơn vị cảnh báo, dự báo thiên tai

Theo thống kê của Ban Chỉ đạo Trung ương về Phòng, chống thiên tai, chỉ tính đến tháng 6/2018, mưa lớn gây lũ quét, sạt lở đất tại các tỉnh miền núi phía Bắc đã khiến 31 người chết và mất tích, thiệt hại 458 tỷ đồng.

Chính vì vậy, thời gian tới, Bộ Tài nguyên và Môi trường cần có những giải pháp cụ thể như đẩy mạnh công tác điều tra hiện trạng, áp dụng công nghệ phù hợp…Phóng viên TTXVN đã có cuộc trao đổi cùng ông Trịnh Xuân Hòa, Phó Viện trưởng Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản Việt Nam, Bộ Tài nguyên và Môi trường.

Chú thích ảnh
Mưa lũ gây sạt lở nhiều nơi Lai Châu tháng cuối tháng 6/2018. Ảnh: TTXVN

Dưới sự chỉ đạo Bộ Tài nguyên và Môi trường, Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản đã chủ trì thực hiện đề án “Điều tra, đánh giá và phân vùng cảnh báo nguy cơ trượt lở đất đá các vùng miền núi Việt Nam”. Ông có thể cho biết những kết quả đã đạt được của Đề án trong thời gian qua, cụ thể về thuận lợi và khó khăn?

Những kết quả đạt được của Đề án trong giai đoạn 2012-2018: Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản đã hoàn thành các bộ Bản đồ hiện trạng trượt lở đất đá tỷ lệ 1:50.000 cho 18/37 tỉnh miền núi Việt Nam từ công tác giải đoán ảnh viễn thám và khảo sát thực địa, cùng các bản đồ các yếu tố thành phần liên quan (cấu trúc - kiến tạo, vỏ phong hóa, địa chất thủy văn, địa chất công trình, lượng mưa, thảm phủ thực vật, hiện trạng sử dụng đất,…).

Viện đã hoàn thành các bộ Bản đồ khoanh vùng nguy cơ trượt lở đất đá tỷ lệ 1:50.000 cho 15/37 tỉnh miền núi Việt Nam dựa trên sự đánh giá các mức độ nhạy cảm của các điều kiện tự nhiên - môi trường đối với hiện tượng trượt lở đất đá. Các bản đồ hoàn thành đã được Bộ Tài nguyên và Môi trường chuyển giao cho các địa phương và các cơ quan liên quan phục vụ cho công tác phòng tránh thiên tai. Đồng thời, Đề án cũng đang triển khai điều tra, cập nhật thông tin chi tiết cho các xã trọng điểm về trượt lở đất đá, phục vụ công tác di dời dân khỏi các vùng nguy hiểm.

Trong quá trình thực hiện Đề án, Viện đã nhận được sự phối hợp chặt chẽ của các đơn vị trong Bộ Tài nguyên và Môi trường (Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam, Tổng cục Khí tưởng thủy văn, Trung tâm Quy hoạch và Điều tra Tài nguyên nước miền Bắc, Cục Viễn thám Quốc gia,…) và sự giúp đỡ từ các cấp, các ngành của địa phương trong việc liên hệ công tác, thống kê sơ bộ thiệt hại, xác định những vị trí thiên tai đã xảy ra trong quá khứ.

Tuy vậy, vẫn còn khó khăn như: Công tác khảo sát thực địa khó khăn khi tiếp cận những khu vực miền núi vùng sâu, vùng xa do điều kiện giao thông đi lại rất hạn chế. Việc điều tra hiện trạng trượt lở đất đá tại các khu vực này có thể khắc phục từ công tác giải đoán ảnh viễn thám nhưng nguồn ảnh cập nhật, đa thời kỳ với độ phân giải cao còn rất thiếu.

Đề án dự kiến kết thúc năm 2020 nhưng do nguồn kinh phí cấp cho Đề án hàng năm khá hạn chế nên đến năm 2019, Đề án mới hoàn thành khoảng 30% khối lượng công việc của toàn Đề án. Trượt lở đất, lũ quét thường xảy ra tại các khu vực có điều kiện tự nhiên phức tạp, hiểm trở, luôn tiềm ẩn nguy hiểm đối với các cán bộ điều tra trực tiếp ngoài thực địa, nhất là những thời điểm khảo sát vào mùa mưa bão.

Để phòng chống hiệu quả trượt lở đất đá, theo ông, Việt Nam cần cái nhìn tổng quan ở tầm vĩ mô như thế nào, cụ thể giải pháp về công nghệ nhằm quản lý hệ thống phân tích cảnh báo?

Để phòng chống hiệu quả sạt lở đất, chúng ta cần tiến hành phủ xanh đồi núi trọc bằng việc trồng rừng phòng hộ, khôi phục rừng tự nhiên (không trồng rừng để khai thác); hạn chế xây dựng, quy hoạch dân cư tại những khu vực được đánh giá có nguy cơ cao, mật độ trượt lở xảy ra nhiều. Đối với công tác cảnh báo nguy cơ trượt, lở đất đá, cần tiến hành hướng dẫn, tuyên truyền đối với người dân địa phương về ứng phó, giảm thiểu thiệt hại của trượt, lở đất đá khi có cảnh báo cũng như trong mỗi mùa mưa bão. Tiến hành lắp đặt các thiết bị cảnh báo sớm trượt, lở đất, lũ quét tại những lưu vực có nguy cơ cao, có khả năng ảnh hưởng trực tiếp đến người dân.

Hiện nhiều nước có chương trình quản lý sạt trượt rất tốt, bố trí các điểm dân cư tránh vùng nguy hiểm, vậy Việt Nam có thể áp dụng mô hình nào thích hợp thưa ông?

Bất kỳ khu vực của nước nào trên thế giới cũng đều chỉ có thế bố trí các điểm dân cư tránh vùng nguy hiểm khi khu vực đó vẫn còn quỹ đất “an toàn”. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, các khu vực “an toàn” với trượt, lở đất đá thì “nguy hiểm” với lũ quét hoặc với thiên tai khác, và ngược lại. Do vậy, chấp nhận “sống chung với rủi ro” bằng việc áp dụng các giải pháp công trình là một mô hình đang được sử dụng hiệu quả ở các nước tiên tiến trên thế giới (như Nauy, Pháp, Ý, Hồng Kông,… đối với trượt lở; Hà Lan đối với lũ lụt; Đài Loan đối với lũ bùn đá; Nhật Bản đối với động đất...)

Ở Việt Nam, một số biện pháp sau có thể áp dụng tại các khu vực miền núi Việt Nam để bố trí các điểm dân cư tránh vùng nguy hiểm như: Di chuyển nhỏ lẻ các hộ gia đình xen kẽ vào trong các cụm dân cư an toàn, đã sinh sống ổn định. Phương pháp này ít phải đầu tư thêm cơ sở hạ tầng cho cụm dân cư, có thể tận dụng được những vùng có diện tích hạn chế để tái bố trí dân cư. Tuy nhiên, chính quyền địa phương cần hỗ trợ sinh kế cho người dân mới chuyển đến.

Áp dụng các biện pháp công nghệ để đo vẽ để xác định các khu vực an toàn đối với các tai biến địa chất (trượt lở đất đá, lũ quét, sập sut, xói lở...) để di dời cả cụm dân cư nằm trong vùng nguy hiểm sang khu tái định cư. Tuy vậy, phương pháp này phụ thuộc rất nhiều vào quỹ đất của địa phương, khả năng xây dựng các công trình mới cho khu tái định cư, và hỗ trợ sinh kế cho người dân ở khu tái định cư.

Đối với những khu vực không còn quỹ đất “an toàn”, chính quyền địa phương và các cơ quan quy hoạch, xây dựng có thể dựa vào các bản đồ phân vùng cảnh báo nguy cơ trượt, lở đất đá và nguy cơ lũ quét, có thể để xác định trước các mức độ nguy cơ cho từng vùng cụ thể. Trên cơ sở đó, đề ra các giải pháp xây dựng công trình cụ thể (kè, đập, tường chắn, trồng rừng phòng hộ) nhằm giảm nhẹ cường độ của thiên tai và giảm thiểu rủi ro, thiệt hại.

Để chuyển tải nhanh các thông tin liên quan đến trượt, lở đất đá, góp phần nâng cao hiệu quả cảnh báo thiên tai, thời gian tới, Viện định hướng phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, đơn vị cảnh báo, dự báo thiên tai (Tổng cục Khí tượng Thủy văn, Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống thiên tai, các địa phương) cụ thể ra sao, thưa ông ?

Bộ Tài nguyên và Môi trường đã chuyển giao các sản phẩm của Đề án, cung cấp các thông tin, số liệu về trượt, lở đất đá, những khu vực trọng điểm cần chú ý, cảnh báo, cần di dời dân cư đến các đơn vị liên quan và địa phương để có kế hoạch phòng tránh kịp thời.

Các cán bộ của Đề án cũng đã phối hợp chặt chẽ với Trung tâm Dự báo Khí tượng Thủy văn Quốc gia trong việc trực ban, xây dựng các bản tin cảnh báo thiên tai mỗi khi có các hiện tượng thời tiết nguy hiểm.

Trân trọng cảm ơn ông!

Diệu Thúy/TTXVN (Thực hiện)
Sạt, lở đất ở Việt Nam - Bài 3: Kinh nghiệm từ Nhật Bản
Sạt, lở đất ở Việt Nam - Bài 3: Kinh nghiệm từ Nhật Bản

Theo ông Yusuke Sakai, Viện Nghiên cứu tổng hợp chính sách công nghệ đất đai quốc gia, mỗi năm, Nhật Bản xảy ra 1.000 - 1.500 trận sạt, lở đất làm vài chục người chết.

Chia sẻ:

doanh nghiệp - Sản phẩm - Dịch vụ Thông cáo báo chí Rao vặt

Các đơn vị thông tin của TTXVN