Từ năm 1998, Việt Nam đã tham gia vào quá trình quản lý rừng bền vững. Cho đến nay, Viện Nghiên cứu quản lý rừng bền vững và chứng chỉ rừng (SFMI) hoạt động theo quy chế thành viên Hội đồng quản trị rừng thế giới (FSC), được coi là “Sáng kiến quốc gia” của Việt Nam.
Những lợi ích thiết thực
Theo Giáo sư Tiến sĩ Khoa học Nguyễn Ngọc Lung, mục tiêu chính của phát triển bền vững đối vơi lĩnh vực lâm nghiệp Việt Nam là môi trường-kinh tế-xã hội cho hiện nay và tương lai ở mức độ cao nhất, trên cơ sở bảo tồn và phát triển vốn rừng. Có 5 lợi ích phổ biến của quản lý rừng bền vững và chứng chỉ rừng. Đó là đáp ứng nhu cầu khách hàng; tạo cơ hội tiếp cận tốt thị trường; mang lại lợi thế so sánh cạnh tranh; là biện pháp thực thi cam kết có trách nhiệm đối với tài nguyên rừng; biện pháp thực hiện chính sách phát triển bền vững. Điều đó cho thấy quản lý bền vững có ý nghĩa quan trọng phát triển kinh tế, vừa là để ứng phó với biến đổi khí hậu thông qua thực thi cam kết có trách nhiệm đối với chính sách tài nguyên và phát triển bền vững.
Hội đồng quản trị rừng thế giới đã có quy trình chứng chỉ rừng đạt quản lý bền vững theo nhóm các hộ gia đình của từng xã, từng huyện có cơ hội tham gia phong trào quản lý rừng bền vững. Hình thức này đã tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, vì thực tế đa số rừng trồng sản xuất được giao quyền sử dụng cho các hộ gia đình ở quy mô phân tán từ 0,2 đến 30ha, hộ nhiều nhất 100ha.
Nhờ đó chỉ tính đến năm 2017, diện tích rừng trồng có khả năng cung cấp gỗ nguyên liệu hàng năm ở Việt Nam là 4,1 triệu ha, chiếm gần 98% tổng diện tích rừng trồng. Phần lớn diện tích này được giao cho các hộ gia đình quản lý và sử dụng, trong đó rừng trồng tập trung khoảng 1,5 triệu ha được giao cho khoảng 1,5 triệu hộ gia đình là đối tượng rất cần thực hiện quản lý rừng bền vững và chứng chỉ rừng.
Tính đến thời điểm đầu năm 2019, Việt Nam đã có 235.000 ha rừng được cấp chứng chỉ từ Hội đồng quản trị rừng thế giới đạt tiêu chuẩn quản lý rừng bền vững. Các mô hình liên kết hộ gia đình trồng rừng đã và đang diễn ra tại một số địa phương có diện tích và sản lượng gỗ rừng trồng trọng điểm như: Yên Bái, Tuyên Quang, Thừa Thiên Huế, Quảng Trị, Quảng Nam, Ninh Thuận, Bình Thuận.
Thực tiễn ở Quảng Trị
Quảng Trị là một trong những tỉnh thuộc Bắc Trung Bộ, thường xuyên bị ảnh hưởng của bão, lụt, sạt lở đất, hạn hán…Trong bối cảnh của biến đổi khí hậu nên tầng suất thiên tai xảy ra ngày càng cao hơn và gây hậu quả rất lớn. Với sự nỗ lực của ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh, sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế KFW2, WF và IKEA và quyết tâm của các hộ gia đình, Hợp tác xã trồng rừng, quan trọng nhất là có sự tham gia dẫn dắt tiếp cận thị trường của Doanh nghiệp nhập khẩu sản phẩm gỗ IKEA, thông qua doanh nghiệp thương mại và chế biến gỗ trong nước, Quảng Trị đã phát triển liên kết hộ gia đình trồng rừng đạt chứng chỉ quản lý rừng bền vững qua 3 giai đoạn.
Giai đoạn 2007-2010: Các cơ quan chức năng của tỉnh vận động các hộ gia đình tham gia, đồng thời tổ chức tập huấn nâng cao năng lực thực hiện cho các thành viên và quản lý tuân thủ nguyên tắc, tiêu chí chứng chỉ Hội đồng quản trị rừng; triển khai xây dựng mô hình thí điểm cấp chứng chỉ cho nhóm hộ gia đình trồng rừng; hoàn thiện bộ tài liệu hướng dẫn quy trình kỹ thuật theo quy trình trồng rừng có chứng chỉ. Kết quả bước đầu là nhóm hộ đầu tiên tại huyện Gio Linh và Vĩnh Linh được cấp chứng chỉ Hội đồng quản trị rừng thế giới với quy mô 316 ha của 118 hộ gia đình.
Giai đoạn 2011-2015: Từng bước hoàn thiện hệ thống tổ chức của các nhóm hộ trồng rừng có chứng chỉ. Qua đó thành lập Hội các nhóm hộ có tư cách pháp nhân, con dấu, tài khoản riêng và chịu sự quản lý của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Quy chế hoạt động, quy chế tài chính của Hội được UBND tỉnh phê duyệt và ban hành. Đồng thời vận động doanh nghiệp thương mại và chế biến gỗ tham gia và hỗ trợ 100% chi phí đánh giá đầu kỳ, chi phí đánh giá hàng năm giai đoạn 2016-2020 cho diện tích rừng đủ tiêu chuẩn cấp chứng chỉ. Quy mô diện tích rừng trồng được cấp chứng chỉ tính đến năm 2015 đạt trên 1.392ha của 526 hộ.
Gia đoạn 2016-2020: Tỉnh mở rộng sự tham gia của các đối tượng chủ rừng khác, như Hợp tác xã lâm nghiệp; mở rộng diện tích rừng được cấp chứng chỉ lên 3.000ha. Hội các nhóm hộ sẽ tự vận hành hoạt động và chi trả cho phí dịch vụ đánh giá đầu kỳ và hàng năm để duy trì chứng chỉ bằng quỹ của Hội, được hình thành do khoản đóng góp của hội viên từ mức chênh lệch bán gỗ có chứng chỉ của Hội đồng quản trị rừng.
Theo báo cáo của Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh quảng Trị, tính đến năm 2017, tổng diện tích rừng trồng sản xuất đạt chứng chỉ của Hội đồng quản trị rừng trên địa bàn trên 22.000ha, trong đó Hội các nhóm hộ có chứng chỉ gần 1.900ha. Kết quả sản xuất của ngành nông-lâm nghiệp đóng góp 22,7% tổng giá trị cơ cấu kinh tế của tỉnh. Rừng trồng keo và bạch đàn là loại cây trồng phổ biến, cung cấp trung bình mỗi năm 400.000m3 gỗ nguyên liệu phục vụ công nghiệp chế biến gỗ.