Phấn đấu 100% dân cư nông thôn được sử dụng nước sạch, an toàn.
Chưa đáp ứng được yêu cầu người dân nông thôn
Theo Chiến lược quốc gia về cấp nước sạch và vệ sinh nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045, mục tiêu đặt ra là 100% người dân nông thôn được sử dụng nước sạch đạt quy chuẩn, trong đó ít nhất 65% được cấp từ hệ thống tập trung.
Trong bức tranh phát triển nông thôn mới, nước sinh hoạt được xem là yếu tố nền tảng bảo đảm an sinh và chất lượng cuộc sống người dân. Ông Lương Văn Anh, Phó Cục trưởng Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) nhấn mạnh rằng “nước sinh hoạt không thể xem là vấn đề phụ, mà là hạ tầng an sinh thiết yếu - điều kiện để duy trì sức khỏe, giáo dục, sản xuất và ổn định xã hội ở nông thôn”.
Xâm nhập mặn khiến nhiều hộ dân ở Đồng bằng sông Cửu Long thiếu nước sinh hoạt, phải di chuyển xa để tìm nguồn nước ngọt.
Theo Bộ Nông nghiệp và Môi trường (NN&MT), đến nay mới khoảng 68% hộ dân nông thôn được sử dụng nước đạt quy chuẩn, trong đó 60% từ công trình tập trung, 8% từ hệ thống hộ gia đình. Như vậy, vẫn còn hơn 30% dân cư nông thôn tương đương khoảng 17 triệu người, đang sử dụng nguồn nước không đảm bảo.
Tình trạng này phổ biến ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, nơi hệ thống cấp nước nhỏ lẻ và khó bảo trì. Ông Giáp Mai Thùy, Phó Trưởng phòng Quản lý nước sạch nông thôn, Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi (Bộ NN&MT) thẳng thắn nhìn nhận: “Phần lớn công trình nhỏ lẻ chỉ hoạt động được 3 - 5 năm rồi xuống cấp. Nếu không có cơ chế quản lý cộng đồng hoặc doanh nghiệp tham gia, công trình nhanh chóng hư hỏng, gây lãng phí”.
Ông Giáp Mai Thùy, Phó Trưởng phòng Quản lý nước sạch nông thôn, Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi (Bộ NN&MT) trả lời báo chí.
Bên cạnh đó, vốn đầu tư cho nước sạch cũng còn hạn chế. Theo đó, tổng vốn đầu tư nước sạch cho giai đoạn 2020 - 2024 đạt 13.400 tỷ đồng, nhưng vẫn thiếu gần 16.000 tỷ đồng để đáp ứng nhu cầu giai đoạn 2021 - 2025. “Khoảng trống đầu tư này là thách thức lớn nhất để hiện thực hóa mục tiêu 100% nước sạch nông thôn vào năm 2030”, ông Thùy cho biết thêm.
Thời gian qua, biến đổi khí hậu, hạn hán, xâm nhập mặn và lũ lụt đã khiến nhiều địa phương đối mặt nguy cơ thiếu nước sinh hoạt nghiêm trọng. Tại Đồng bằng sông Cửu Long, mùa khô 2024 - 2025 ghi nhận hàng chục xã bị nhiễm mặn trên 4%, khiến hàng nghìn hộ dân phải di chuyển xa để lấy nước ngọt.
Để ứng phó, nhiều địa phương đã xây dựng kịch bản cấp nước khẩn cấp khi xảy ra thiên tai. Hệ thống bồn chứa di động, trạm cấp nước lưu động hay các giếng khoan dự phòng được kích hoạt để đảm bảo nước uống cho người dân. Một số nơi như An Giang, Long An (cũ), Quảng Nam (cũ) đã hình thành “bản đồ rủi ro nước sạch”, giúp theo dõi mức độ ô nhiễm, nhiễm mặn và cạn kiệt nước ngầm theo thời gian thực.
Về lâu dài, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đang xây dựng bộ định mức kỹ thuật riêng cho các công trình cấp nước nông thôn. Ảnh minh họa
Cần quy hoạch tổng thể và giám sát chất lượng nước
Theo ông Đặng Thanh Lâm, Phó Viện trưởng Viện Quy hoạch thủy lợi miền Nam, hiện nhiều công trình cấp nước nông thôn hoạt động cục bộ, thiếu liên kết vùng. “Nếu quy hoạch riêng lẻ từng xã, từng huyện sẽ không thể chống chọi khi xảy ra sự cố thiên tai diện rộng. Cần một quy hoạch tổng thể liên vùng - vừa để chia sẻ nguồn nước, vừa giảm chi phí đầu tư”, ông Lâm chia sẻ.
Cùng với đó, vấn đề chất lượng nước sau xử lý cũng được đặt ra. Nhiều nơi đạt chuẩn đầu vào nhưng lại nhiễm khuẩn ở đầu ra do đường ống cũ, bể chứa mất vệ sinh hoặc vận hành thủ công.
Trước thực trạng này, các chuyên gia đề nghị đẩy mạnh chuyển đổi số trong giám sát chất lượng nước, kết nối cảm biến đo độ đục, độ pH, clo dư… về trung tâm quản lý để cảnh báo kịp thời.
Tại An Giang, hiện có 238 công trình cấp nước tập trung phục vụ hơn 665.000 hộ dân, vận hành theo ba mô hình: Nhà nước, doanh nghiệp và cộng đồng cùng tham gia.
Nguồn lực đầu tư cho các công trình cấp nước sạch nông thôn vẫn còn hạn chế. Ảnh minh họa
Tuy nhiên, ông Đặng Duy Quang, đại diện Trung tâm Nước sạch và Vệ sinh môi trường nông thôn (NS&VSMTNT) An Giang cho biết vẫn còn nhiều bất cập: “Công trình xuống cấp, thủ tục khoan khai thác nước ngầm phức tạp, tổ chức bộ máy chưa ổn định. Nhiều xã chưa có cán bộ chuyên trách nước sạch nên công tác vận hành còn hạn chế”.
Ông Quang kiến nghị cần sửa đổi quy trình hành chính, đặc biệt là các thủ tục cấp phép khai thác và đầu tư công trình. “Phải coi nước sạch là dịch vụ thiết yếu, không thể chờ như các dự án thông thường”, ông nói.
Ông Phạm Văn Mạnh, Phó Viện trưởng Viện Quy hoạch thủy lợi miền Nam cho biết, qua kết quả khảo sát và đánh giá thực tế tại Đồng bằng sông Cửu Long, có thể thấy công tác cấp nước sạch nông thôn hiện còn nhiều bất cập, đặc biệt là ở khâu quy hoạch, quản lý khai thác và giám sát nguồn nước.
Đảm bảo an ninh nguồn nước sạch là nền tảng cho sức khỏe cộng đồng và phát triển bền vững.
Từ thực tế tại các địa phương, bài học quan trọng nhất chính là sự tham gia của cộng đồng. Ở nhiều xã của Nghệ An, Quảng Trị, người dân tự thành lập tổ quản lý nước sạch và cùng thu phí, bảo trì đường ống, kiểm tra chất lượng định kỳ.
Nhờ đó, tỷ lệ công trình hoạt động bền vững tăng gấp đôi so với nơi chỉ giao cho chính quyền xã quản lý. “Không có cộng đồng, công trình sẽ chết yểu. Khi người dân hiểu giá trị của nước sạch họ sẽ chủ động bảo vệ nó”, ông Mạnh khẳng định.
Các chuyên gia thống nhất rằng, để đạt mục tiêu 100% người dân nông thôn được dùng nước sạch vào năm 2030, Việt Nam cần ba nhóm giải pháp trọng tâm: Đầu tư đồng bộ hạ tầng nước sạch và công trình dự phòng chống thiên tai; tăng cường giám sát chất lượng và chuyển đổi số quản lý nguồn nước; đẩy mạnh xã hội hóa - khuyến khích doanh nghiệp và cộng đồng cùng tham gia.
“Nước sạch không chỉ là vấn đề kỹ thuật mà là an sinh. Mỗi giọt nước đến được với người dân vùng khó chính là một bước tiến của công bằng xã hội”, ông Anh khẳng định.