Vấn nạn ô nhiễm môi trường vẫn tràn lan trên cả nước, kể cả các địa phương có nền kinh tế phát triển như Thủ đô Hà Nội và TP Hồ Chí Minh. Nguyên nhân là do các phương pháp xử lý ô nhiễm chất thải rắn và nước thải vẫn còn nhiều lúng túng, bất cập, chưa hiệu quả, chưa tối ưu và chưa phù hợp.
Trong vấn đề xử lý chất thải rắn, đặt biệt là rác thải sinh hoạt, bằng nguồn ngân sách, đầu tư trong và ngoài nước, nguồn vốn ODA…, Việt Nam đã đầu tư xây nhiều nhà máy, nhiều cơ sở xử lý rác thải nhưng hiệu quả mang lại vẫn chưa tương xứng. Thực trạng này đòi hỏi phải có những giải pháp về cơ chế chính sách, nhất là công nghệ phù hợp với thực tế trước mắt và lâu dài.
Ưu điểm và nhược điểm của các phương pháp xử lý hiện nay
Theo đánh giá của Tiến sĩ Nguyễn Đình Trọng, Chủ tịch Hội đồng quản trị Tập đoàn Công nghệ T-TECH Việt Nam, lý do dẫn đến sự không thành công, thậm chí có thể gọi là thất bại của các dự án đầu tư xử lý rác trong thời gian qua là do công nghệ chưa phù hợp với rác thải chưa được phân loại từ đầu nguồn như ở Việt Nam; năng lực quản trị điều hành của nhà đầu tư còn yếu kém; khả năng đầu tư đồng bộ và quyết liệt chưa đủ, chưa tới tầm; sự đồng hành, đồng thuận hỗ trợ của Nhà nước, của nhà doanh nghiệp và người dân còn thiếu.
Trong nhiều năm qua, Việt Nam đã đầu tư, thực hiện nhiều biện pháp, phương pháp, áp dụng nhiều công nghệ để xử lý rác. Cụ thể: Công nghệ chôn lấp có ưu điểm dễ thực hiện, giá rẻ nhưng nhược điểm là tốn nhiều diện tích đất, khó kiểm soát ô nhiễm.
Thực tế cho thấy, ô nhiễm thứ cấp rất nguy hiểm đến sức khỏe con người và môi trường sinh thái. Nhiều bãi chôn lấp phải xử lý hậu quả còn tốn kém hơn rất nhiều nếu xử lý triệt để ngay từ đầu. Do vậy, tưởng rằng tiết kiệm được chi phí xử lý nhưng thực chất cũng không tiết kiệm được, có khi còn tốn kém hơn. Bên cạnh đó, việc sử dụng công nghệ này còn mất rất nhiều diện tích đất để chôn lấp.
Với công nghệ sản xuất phân vi sinh, về lý thuyết, công nghệ này tận dụng được nguồn nguyên liệu để sản xuất phân vi sinh, tái sử dụng, không phải chôn lấp hay đốt tiêu hủy... Tuy nhiên, công nghệ này thực chất vẫn chưa hiệu quả bởi rác thải sinh hoạt của các tỉnh, thành phố ở Việt Nam phần lớn chưa được phân loại từ đầu nguồn, quá trình phân tách sàng lọc thành phần hữu cơ rất khó khăn, thậm chí có thể nói là luôn thất bại.
Hiện hầu hết các dự án sản xuất phân hữu cơ đều dùng hệ thống sàng lồng để phân loại, hoặc tách trọng lực, tách thành phần hữu cơ để sản xuất phân... Thực chất quá trình này không hiệu quả, trên sàng cũng là rác, dưới sàng cũng là rác, chỉ là rác có kích thước nhỏ hơn hoặc lớn hơn.
Đó là chưa kể đến, giá thành cạnh tranh phân bón làm ra từ rác so với các loại phân khác rất khó. Do đó, có thể nói 100% các dự án sản xuất phân hữu cơ từ rác điều thất bại do giá thành, chất lượng phân bón không đảm bảo và khó phân loại.
Công nghệ xử lý rác phát điện bằng khí Syngas tổng hợp được giới thiệu là công nghệ không khói, sản phẩm là điện năng và viên đốt. Thực tế, công nghệ này chưa đạt kết quả như mong đợi, vì chưa có một dự án nào thành công mặc dù đã có nhiều dự án đầu tư chính thức và thí điểm.
Theo nhìn nhận của các chuyên gia Tập đoàn Công nghệ T-TECH Việt Nam, công nghệ này còn nhiều bất cập, chưa hoàn thiện, chưa tối ưu, chưa phù hợp với rác thải tổng hợp của Việt Nam. Khí Syngas tổng hợp chưa đảm bảo chất lượng, do nhiều tạp chất, đồng thời lượng khí tạo ra không đủ như tính toán lý thuyết, dẫn đến thất bại. Ngoài ra, chất lượng viên nén đốt có đảm bảo môi trường khi sử dụng hay không cũng chưa thể chắc chắn, không có người tiêu thụ. Do đó, công nghệ này cũng đang nan giải.
Công nghệ đốt rác phát điện dựa theo nguyên lý Công nghệ Martin (Đức), sản xuất tại Trung Quốc. Về lý thuyết, đây là công nghệ hiện đại, đồng thời sản xuất tại Trung Quốc có giá thành rẻ hơn sản xuất tại Đức. Song thực tế cũng chưa có một dự án nào thành công, thậm chí có dự án tại Hà Nội đang áp dụng vẫn còn nhiều bất cập.
Nguyên nhân do công nghệ này được du nhập vào Trung Quốc, sản xuất và áp dụng cải biên chưa đúng, dẫn đến quá trình đốt và xử lý khí chưa hiệu quả, thường xuyên tắc hệ thống khí, đốt chưa đạt công suất theo thiết kế, chỉ đạt khoảng 50% thiết kế. Điều này dẫn đến ùn ứ rác, gây ô nhiễm môi trường.
Công nghệ đốt rác phát điện bằng Plasma có thể xử lý triệt để ô nhiễm rác thải. Tuy nhiên, công nghệ này vẫn chưa thành công do có nhược điểm tốn kém rất nhiều điện năng nếu làm đạt yêu cầu. Đây là công nghệ khí hóa rác thải bằng nguồn năng lượng Plasma.
Thực tế tại Việt Nam cho thấy, chưa có một dự án nào thành công, thậm chí có dự án đang áp dụng vẫn còn nhiều bất cập. Nguyên nhân là do nhà sản xuất áp dụng nguyên lý không đúng, công nghệ xây lò và dây chuyền không đạt, dẫn đến khả năng đốt và nhiệt độ đốt rất kém so với tính toán và kỳ vọng, dẫn đến dự án không thành công.
Đề xuất phương pháp
Từ những phân tích nêu trên, Tiến sĩ Nguyễn Đình Trong cho rằng, để xử lý rác thải sinh hoạt thành công và hiệu quả cần hội tụ đầy đủ các yếu tố cần thiết. Trước hết là phải xây dựng được Bản đồ quy hoạch Điểm xử lý rác thải phù hợp và tối ưu trong quá trình thu gom, vận chuyển, trong phòng ngừa sự số môi trường thiên tai, phải lưu ý đến các nguồn nước và môi sinh xung quanh. Vấn đề quy hoạch phải được xem xét kỹ lưỡng, nhất quán, hạn chế thay đổi trong thời gian ngắn 10 năm hay 20 năm, cố gắng phải đạt sự ổn định trong vòng 30 năm và lâu hơn nữa.
Yếu tố thứ hai là lựa chọn công nghệ xử lý: Giải pháp thứ nhất dành cho Điểm xử lý rác có công suất dưới 200 tấn/ngày nên dùng công nghệ đốt tiêu hủy, tận dụng nhiệt để đốt rác. Kèm theo phân loại và sản xuất hạt nhựa; sản xuất gạch không nung, gạch tự chèn; bán phế liệu như sắt thép... (không nên sản xuất phân hữu cơ từ rác).
Giải pháp thứ 2 dành cho Điểm xử lý rác có công suất trên 200 tấn/ngày dùng công nghệ đốt rác phát điện, tận dụng nhiệt để phát điện; sản xuất gạch không nung, gạch tự chèn; bán phế liệu như sắt thép...
Yếu tố thứ ba là lựa chọn nhà đầu tư, vì một trong những yếu tố đem lại sự thành công cho nhà máy xử lý rác là lựa chọn nhà đầu tư, nhà quản trị điều hành. Nếu nhà đầu tư không có khả năng quản trị điều hành, công nghệ có tốt đến đâu cũng thất bại. Vì vậy, các địa phương cần chọn một nhà đầu tư đủ năng lực, đủ tâm huyết, đủ trách nhiệm, mới có thể thành công.
Yếu tố cuối cùng là sự đồng hành, đồng thuận của các bên liên quan. Vì vấn đề xử lý rác thải là một vấn đề lớn, phức tạp và khó, liên quan đến nhiều thành phần, liên quan đến an sinh xã hội, môi trường và ổn định chính trị.
Do vậy, để một nhà máy xử lý rác thải thành công rất cần đến sự đồng bộ chung tay của Nhà nước, người dân và doanh nghiệp. Các bên đều phải hiểu mức độ khó khăn và cùng đồng hành, hỗ trợ nhau, mới có thể đi đến thành công.