Sơ đồ vị trí nạo vét, nhận chìm và quan trắc. Ảnh: Nguyễn Thanh/TTXVN |
Đề cập về vấn đề này, ông Vũ Thanh Ca, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu biển và hải đảo, thành viên Nhóm chuyên gia môi trường biển Liên hợp quốc đã nêu ra những luận cứ khoa học trong việc cấp phép nhận chìm vật liệu nạo vét từ vũng quay tàu, khu nước trước bến chuyên dùng phục vụ Nhà máy nhiệt điện Vĩnh Tân 1.
Theo luận cứ của ông Vũ Thanh Ca, London đã có Công ước về phòng ngừa ô nhiễm biển do đổ chất thải và các chất khác ở biển (Công ước London 1972 và Nghị định thư về Công ước (Nghị định thư London 1996), trong đó đều có quy định chất nạo vét là chất được phép đổ xuống biển.
Cơ sở của việc này là chất nạo vét là chất được đưa lên từ đáy biển và việc đưa nó trở lại biển là một việc rất tự nhiên nếu nó không chứa những chất độc hại có khả năng làm môi trường biển thay đổi theo chiều hướng xấu đi. Hoạt động nhận chìm ở biển cũng được đề cập tới trong nhiều văn bản khác của luật pháp quốc tế về môi trường, đặc biệt là Công ước Liên hợp quốc về Luật biển 1982 và các Nghị quyết đại hội đồng Liên hợp quốc về Đại dương và Luật Biển.
Việc nhận chìm cát nạo vét để bảo vệ bờ rất phổ biến trên thế giới. Một thí dụ rất điển hình là bãi biển Palm, Florida, Mỹ. Đây là bãi biển đẹp và đắt giá nhất nước Mỹ. Bãi này bị xói lở do cát bị vận chuyển dọc bờ theo hướng sóng thịnh hành và lắng đọng ở phía cuối của bãi. Để duy trì bãi, người ta đã nạo vét cát ở cuối bãi, chở lên “nhận chìm” ở đầu bãi.
Gần đây, các nhà khoa học Hà Lan đã đưa ra ý tưởng sử dụng máy cát (sand engine), tức là đổ cát thành một doi ở khu vực phía đầu sóng của một bãi biển bị xói lở để cát từ từ di chuyển về cuối bãi. Khi cát đã lắng đọng ở cuối bãi, cát lại được nạo vét để “nhận chìm” ở đầu bãi.
Theo số liệu của Tổ chức Hàng hải quốc tế, năm 2016, vật liệu nạo vét chiếm khoảng 80-90% các vật, chất được phép nhận chìm với tổng lượng khoảng 250-500 triệu tấn được cấp phép nhận chìm ở biển hàng năm.
Nhận thức được rằng trong nhiều trường hợp, việc đổ thải trên bờ rất khó khăn, tốn kém, thậm chí bất khả thi và để nội luật hóa các quy định quốc tế vào luật pháp Việt Nam, Luật Bảo vệ môi trường 2014 đã cho phép nhận chìm, đổ thải ở biển.
Việc nhận chìm ở biển đã được quy định chi tiết trong Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo 2015 và Nghị định số 40/2016/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo.
Danh mục các chất được phép nhận chìm ở biển quy định trong Nghị định số 40/2016/NĐ-CP của Chính phủ hoàn toàn trùng lặp với danh mục các chất được đổ xuống biển quy định trong Công ước London 1972 và Nghị định thư London 1996 và bao gồm chất nạo vét.
Mục đích của việc quy định hoạt động nhận chìm ở biển là để quản lý tốt hơn và giảm thiểu tác động môi trường do hoạt động nhận chìm, đồng thời giảm chi phí, tạo điều kiện để phát triển kinh tế biển một cách hiệu quả nhất. Một quy định rất chặt chẽ trong luật pháp quốc tế và luật pháp Việt Nam về nhận chìm ở biển là phải thực hiện cấp phép để đảm bảo hạn chế thấp nhất những thiệt hại về môi trường, sinh thái do các hoạt động nhận chìm gây ra.
Theo đó, phải đảm bảo khu vực nhận chìm không phải là khu vực có tầm quan trọng cao về môi trường, sinh thái và hoạt động nhận chìm ở biển không được gây ra những tác động có hại tới các khu vực biển có tầm quan trọng cao về môi trường sinh thái ở xung quanh khu vực nhận chìm.
Theo Báo cáo dự án nhận chìm vật liệu nạo vét từ vũng quay tàu, khu nước trước bến chuyên dùng phục vụ Nhà máy nhiệt điện Vĩnh Tân 1, độ dày lớp đất cát nạo vét điển hình khoảng 14,5m. Trong đó có một lớp cát pha bùn sét với hàm lượng bùn sét không vượt quá 5%. Các lớp khác chủ yếu là cát và có rất ít bùn sét.
Khi bị đổ xuống biển, chất nạo vét sẽ trùm lên đáy biển và gây ra tác hại với các sinh vật sống ở đáy biển. Nếu lớp chất đổ xuống dày, một số loài sinh vật sẽ bị chết. Một số khác có khả năng xuyên qua lớp cát để lên mặt và không bị chết. Ngoài ra, bùn và các chất độc hại (nếu có) trong chất nạo vét có khả năng hòa tan trong nước biển và bị dòng chảy biển mang đi, có khả năng ảnh hưởng tới các khu vực khác.
Theo Báo cáo nhận chìm Nhà máy nhiệt điện Vĩnh Tân 1, kết quả khảo sát hiện trường cho thấy nền đáy biển khu vực đổ chất nạo vét của Nhà máy chủ yếu là nền cát với rất ít sinh vật sinh sống. Vì vậy, hoạt động đổ thải sẽ ảnh hưởng ít tới đa dạng sinh học và nguồn lợi thủy sản ở khu vực này.
Kết quả phân tích đối với dự án nhận chìm chất nạo vét tại Vĩnh Tân 1, trong thành phần của chất nạo vét không thấy có chất độc hại như kim loại nặng hoặc các chất độc hại khác vượt quá mức cho phép. Như vậy, vấn đề cần quan tâm khi đổ chất nạo vét chỉ là độ đục của nước chứ không phải là hàm lượng của các chất độc hại.
Như đã nêu ở trên, hoạt động nhận chìm chất nạo vét trong dự án Vĩnh Tân 1 có thể có tác động tới môi trường của các khu vực xung quanh, đặc biệt là khu bảo tồn biển Hòn Cau và bãi cạn Breda là những khu vực có các rạn san hô quý hiểm và hệ sinh thái rạn san hô với đa dạng sinh học rất cao.
Nếu bùn nạo vét bị vận chuyển tới và lắng đọng tại các khu vực này, thiệt hại về môi trường, sinh thái sẽ rất lớn. Vì vậy, dự án cần được thực hiện sao cho việc nhận chìm chất nạo vét ảnh hưởng không đáng kể tới khu vực nhận chìm. Bởi vùng biển Bình Thuận có một hệ thống dòng chảy rất phức tạp. Mùa hè, dòng mặt chảy ven bờ chủ yếu có hướng từ Nam lên Bắc.
Mùa đông, dòng chảy mặt chủ yếu có hướng từ Bắc xuống Nam. Hệ thống dòng chảy này có vận tốc tối đa trên 0,5m/s và đóng vai trò chính trong vận chuyển nước đục từ khu vực nhận chìm đi các nơi khác. Có một số ý kiến cho rằng, trong mùa hè có tồn tại một vùng nước trồi bên ngoài vùng biển Nam Trung Bộ nên việc đổ thải vào mùa hè là rất nguy hiểm do hệ thống nước trồi này có khả năng vận chuyển nước đục đi xa.
Tuy vậy, cần nhận thức rằng hệ thống nước trồi ở đây có tâm cách bờ khoảng 100km, ở vùng biển có độ sâu rất lớn. Vì khu vực nhận chìm có độ sâu nhỏ, chỉ dưới 40m, dòng chảy từ khu vực nước trồi vào khu vực này gần như theo phương ngang và có vận tốc nhỏ hơn rất nhiều so với dòng gió và dòng triều, nên nó hầu như không ảnh hưởng đáng kể tới việc vận chuyển nước đục đi xa.
Để tính toán, đánh giá tác động của việc nhận chìm chất nạo vét tới khu bảo tồn biển Hòn Cau, báo cáo dự án nhận chìm được Bộ Tài nguyên và Môi trường thông qua đã thực hiện tính toán bằng mô hình số trị sự lan truyền nước đục do hiện tượng nạo vét và đổ thải gây ra. Mô hình đã tính tới ảnh hưởng tổng hợp của dòng chảy gió, dòng triều và dòng chảy gây ra do sự chênh lệch mật độ, mực nước trên toàn miền.
Tính toán đã được thực hiện cho 3 trường hợp: 1-lặng gió, thời tiết tốt; 2-gió mùa đông bắc; 3-gió mùa tây nam. Các kết quả tính toán cho thấy trong điều kiện lặng gió, nước đục do hoạt động đổ thải gây ra được lan truyền do dòng triều và khuếch tán và có xu hướng đi về phía đông bắc. Trong trường hợp này, nước đục chủ yếu tập trung tại gần bờ và quá trình đổ thải chỉ ảnh hưởng rất nhẹ tới ranh giới phía Bắc của bãi cạn Breda và phía bắc ranh giới ngoài của khu bảo tồn biển Hòn Cau.
Với trường hợp gió mùa tây nam, quá trình vận chuyển nước đục chủ yếu xảy ra do dòng chảy gió và dòng chảy triều và nước đục chủ yếu được vận chuyển theo hướng đông bắc, không ảnh hưởng gì tới khu bảo tồn biển Hòn Cau. Đối với trường hợp gió mùa đông bắc, nước đục được vận chuyển xuống phía Nam của khu vực nhận chìm và cũng ảnh hưởng đáng kể tới khu vực ở bãi cạn Breda và ranh giới khu bảo tồn biển Hòn Cau, nếu như thời gian tồn tại gió đông bắc kéo dài.
Theo Báo cáo, độ sâu khu vực đổ chất nạo vét khoảng từ trên 30m tới 36,1m. Ở khu vực gần bờ, do các quá trình động lực mạnh mẽ, độ sâu này gần như là toàn bộ lớp xáo trộn bề mặt cả trong mùa hè và mùa đông.
Như vậy, việc áp dụng mô hình số trị để tính toán sự lan truyền của nước đục và rút ra các kết quả để đánh giá tác động của nước đục tới khu bảo tồn biển Hòn Cau là phù hợp. Vì giấy phép nhận chìm của Bộ Tài nguyên và Môi trường chỉ cho phép đổ vào mùa hè và đầu thu, từ 23/6/2017 tới 31/10/2017, khả năng xảy ra gió mùa đông bắc trong thời gian này khá hiếm.
Với hệ thống trạm quan trắc quy định như trong giấy phép, nếu xảy ra hiện tượng nước đục lan tới ranh giới khu bảo tồn biển Hòn Cau, bãi cạn Breda hoặc các khu nuôi trồng thủy sản trong gió mùa đông bắc thì cần dừng ngay hoạt động nhận chìm để chờ gió đổi sang hướng Nam, Đông Nam hoặc Tây Nam. Đồng thời, cần xây dựng các phương án ứng phó sự cố môi trường nếu sự cố xảy ra trong quá trình nhận chìm. Trong điều kiện bão, các sóng bão có chu kỳ khá dài có thể tác động tới đáy biển nơi nhận chìm bùn cát.
Tuy vậy, do sóng biển là quá trình, dưới tác động của sóng, cát biển sẽ chỉ dịch chuyển cát được một đoạn rất ngắn và không thể cuốn lên để trùm lên san hô tại Hòn Cau hoặc Breda. Bùn có thể bị cuốn lên, nhưng động lực mạnh mẽ tại rạn san hô trong bão sẽ không cho phép bùn lắng đọng ở đây.
Như vậy, trong gió mùa mùa hè, bùn trong dòng nước đục do hiện tượng nhận chìm chất nạo vét gây ra sẽ bị vận chuyển lên phía Bắc và nhanh chóng lắng đọng xuống đáy biển mà không thể tồn tại từ mùa hè qua mùa đông để bị vận chuyển qua lại và lắng đọng xuống khu bảo tồn biển Hòn Cau, hoặc các khu vực có tầm quan trọng về môi trường, sinh thái khác.