Lấp khoảng trống bằng tầng hưu trí xã hội
Theo Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội (LĐTBXH), tổng số người hưởng lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội (BHXH) hằng tháng, trợ cấp hưu trí xã hội là hơn 5,1 triệu người, chiếm khoảng 35% tổng số người sau độ tuổi nghỉ hưu. Số người cao tuổi không có lương hưu và trợ cấp BHXH chiếm 65% đang là khoảng trống về an sinh xã hội.
Việt Nam xác định đến năm 2030, phấn đấu khoảng 60% số người sau độ tuổi nghỉ hưu được hưởng lương hưu, BHXH hằng tháng và trợ cấp hưu trí xã hội.
Do vậy, dự thảo Luật BHXH (sửa đổi) đã bổ sung nội dung về trợ cấp hưu trí xã hội. Theo đó, Công dân Việt Nam từ đủ 75 tuổi trở lên mà không có lương hưu, trợ cấp BHXH hằng tháng khác, thì sẽ được hưởng trợ cấp hưu trí xã hội do ngân sách Nhà nước (NSNN) đảm bảo. Mức trợ cấp hưu trí xã hội hằng tháng do Chính phủ quy định, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội và khả năng của NSNN từng thời kỳ.
Dự thảo Luật cũng giao Chính phủ báo cáo Quốc hội quyết định điều chỉnh giảm dần độ tuổi hưởng trợ cấp hưu trí xã hội phù hợp với khả năng của NSNN từng thời kỳ. Dự thảo mới nhất Chính phủ trình Quốc hội đã đề nghị giảm độ tuổi hưởng trợ cấp hưu trí xã hội từ 80 tuổi xuống còn 75 tuổi sẽ giúp mở rộng đối tượng thụ hưởng trợ cấp hưu trí xã hội thêm khoảng 800 nghìn đến 1 triệu người cao tuổi được hưởng trợ cấp hưu trí xã hội và bảo hiểm y tế.
Tờ trình của Chính phủ nêu rõ, người lao động khi đến tuổi nghỉ hưu có thời gian đóng BHXH (bao gồm cả bắt buộc và tự nguyện) mà chưa đủ điều kiện hưởng lương hưu (chưa đủ 15 năm đóng) và cũng chưa đủ tuổi hưởng trợ cấp hưu trí xã hội (chưa đủ 75 tuổi) thì được lựa chọn hưởng trợ cấp hằng tháng cho thời gian trước khi đủ tuổi hưởng trợ cấp hưu trí xã hội, tùy thuộc vào thời gian đóng, tiền lương, thu nhập tháng đóng BHXH của người lao động; đồng thời trong thời gian hưởng trợ cấp hằng tháng thì được hưởng bảo hiểm y tế (BHYT) do NSNN đảm bảo.
Như vậy, quy định này giúp gia tăng thêm đối tượng hưởng trợ cấp hằng tháng, mà NSNN không phát sinh tăng nhiều (NSNN chỉ hỗ trợ BHYT, còn trợ cấp hằng tháng do quỹ BHXH đảm bảo từ thời gian đóng BHXH của người lao động).
Theo tính toán, người lao động có thời gian đóng BHXH là 5 năm với mức tiền lương tháng đóng bình quân như hiện nay, nếu người lao động không hưởng BHXH một lần mà lựa chọn hưởng trợ cấp hằng tháng thì có thể được hưởng trợ cấp hằng tháng (với mức thấp nhất bằng mức trợ cấp hưu trí xã hội) ngay từ khi đủ tuổi nghỉ hưu thay vì phải chờ đến 75 tuổi.
Đánh giá kỹ tác động
Báo cáo thẩm tra dự án Luật của Uỷ ban Xã hội của Quốc hội cho biết, tại Việt Nam, hiện nay, ở độ tuổi từ 60 đến 79, người cao tuổi có thể nhận lương hưu bảo hiểm xã hội (phải đóng đủ theo luật định và đạt tuổi nghỉ hưu theo quy định), hoặc một trong các loại trợ cấp hưu trí xã hội và trợ cấp người có công.
Các khoản trợ cấp bao gồm trợ cấp hưu trí xã hội (trợ cấp cho người cao tuổi) cho người từ 60 - 79 tuổi thuộc diện hộ nghèo, không có người có nghĩa vụ và quyền phụng dưỡng, hoặc cận nghèo đang sống tại địa bàn các xã, thôn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đặc biệt khó khăn (tuổi 75 - 80) và trợ cấp cho những người khuyết tật ở mức độ nặng.
Tuy nhiên, còn nhiều người cao tuổi trong khoảng 60 -79 không nhận được chế độ nào. Từ 80 tuổi trở lên, tất cả những người không hưởng lương hưu bảo hiểm xã hội đều được hưởng trợ cấp hưu trí xã hội.
Những người được thuộc diện hộ nghèo và sống một mình không có sự hỗ trợ của gia đình và/hoặc bị khuyết tật có thể nhận được mức trợ cấp cao hơn.
Theo Ủy ban Xã hội, việc bổ sung trợ cấp hưu trí xã hội trong dự thảo Luật hiện vẫn còn có ý kiến khác nhau.
Ý kiến thứ nhất, tán thành với dự thảo Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi) bổ sung quy định trợ cấp hưu trí xã hội để thiết lập sàn an sinh, cùng với bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm hưu trí bổ sung hình thành hệ thống bảo hiểm xã hội đa tầng trong một văn bản luật.
Điều này phù hợp với khuyến nghị của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), nhằm chuyển hướng mở rộng diện bao phủ đối tượng hưởng các chế độ hưu trí đa dạng, và không chỉ dựa trên cơ sở đóng góp mà còn dựa trên sự hỗ trợ của Nhà nước (phi đóng góp) nhằm hướng tới bảo đảm an sinh xã hội trên diện rộng.
Ý kiến khác lại cho rằng, trợ cấp hưu trí xã hội thực chất là chế độ thuộc chính sách bảo trợ xã hội, chỉ dành cho những người đủ điều kiện theo quy định của pháp luật về người cao tuổi, chưa thực sự phù hợp với nguyên lý của bảo hiểm là đóng - hưởng và bù đắp thu nhập.
Do vậy, không cần thiết mở rộng phạm vi điều chỉnh, bổ sung trợ cấp hưu trí xã hội vào dự án Luật mà có thể sửa quy định tương ứng của Luật Người cao tuổi, các quy định này sẽ là bộ phận của pháp luật về bảo hiểm xã hội, mà không cần quy định trong Luật Bảo hiểm xã hội. Trên thực tế, Luật Việc làm, Luật An toàn, vệ sinh lao động cũng quy định về các chế độ bảo hiểm xã hội.
Đại diện Ủy ban Xã hội cho biết, đa số ý kiến Thường trực Ủy ban và một số ý kiến của các cơ quan của Quốc hội, các cơ quan của Ủy ban Thường vụ Quốc hội tham gia thẩm tra, góp ý đối với dự án Luật nhất trí việc bổ sung tầng trợ cấp hưu trí xã hội như đề xuất của Chính phủ.
Đây là một trong những giải pháp góp phần hướng tới mục tiêu bao phủ bảo hiểm xã hội toàn dân; phù hợp với thông lệ và kinh nghiệm quốc tế, bảo đảm có thể so sánh độ bao phủ của chế độ hưu trí giữa các quốc gia.
Tuy nhiên, Ủy ban Xã hội đề nghị Chính phủ cần đánh giá kỹ lưỡng hơn tác động của việc quy định trợ cấp hưu trí xã hội đối với ngân sách Nhà nước, xung đột chính sách khi đưa các đối tượng thuộc phạm vi điều chỉnh và áp dụng của Luật Người cao tuổi sang dự án Luật này, ảnh hưởng đến chính sách khuyến khích người lao động tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện.
Trao đổi vấn đề này với phóng viên báo Tin tức, ông Trương Xuân Cừ, Phó Chủ tịch Hội Người cao tuổi Việt Nam cho biết: Dự thảo luật BHXH sửa đổi đề nghị giảm độ tuổi hưởng trợ cấp hưu trí xã hội từ 80 tuổi xuống còn 75 tuổi đáp ứng mong đợi của người cao tuổi và phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam hiện nay. Vấn đề này, chúng tôi đã kiến nghị nhiều lần. Bên cạnh đó, Hội Người cao tuổi cũng đề xuất giảm độ tuổi hỗ trợ người cao tuổi thuộc diện hộ nghèo, không có người có nghĩa vụ và quyền phụng dưỡng, hoặc cận nghèo đang sống tại địa bàn các xã, thôn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đặc biệt khó khăn từ 75 tuổi xuống 70 tuổi.