Chuyển đổi nhân lực phải đi trước một bước - Đó là nhấn mạnh của Bộ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung trước thềm Xuân mới Quý Mão năm 2023 khi trao đổi với báo chí về các vấn đề an sinh xã hội, phát triển thị trường lao động, hỗ trợ người lao động và doanh nghiệp. Sau đây là nội dung cuộc phỏng vấn:
Chưa bao giờ doanh nghiệp và người lao động lại nhận thức rõ vai trò quan trọng của các chính sách an sinh xã hội như khi trải qua đại dịch mới đây cũng như khủng hoảng kinh tế. Trong bối cảnh đó, Bộ trưởng có thể cho biết những kết quả thực hiện các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, người lao động thời gian qua?
Năm 2022 có rất nhiều biến động, diễn biến khó lường không chỉ trong nước mà trên cả thế giới, đặc biệt là hậu quả của đại dịch COVID- 19 để lại. Trong bối cảnh đó, tình hình kinh tế xã hội, đặc biệt là tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đã ảnh hưởng rất lớn đến đời sống của người lao động nói chung, nhân dân nói riêng.
Nhưng với sự lãnh đạo rất linh hoạt, sáng suốt của Đảng, sự chỉ đạo, điều hành quyết liệt của Chính phủ, sự đồng hành của Quốc hội, chúng ta đã ban hành rất nhiều chính sách, trong đó có những chính sách chưa có tiền lệ nhằm khôi phục và phát triển kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội và đời sống của nhân dân. Chúng ta cũng ban hành hàng chục chính sách để duy trì mặt bằng chung của đời sống nhân dân, đảm bảo chính sách đối với các đối tượng chính sách.
Đặc biệt trong 3 năm qua, bằng Nghị quyết số 30/2021/QH15 của Quốc hội, Chính phủ đã ban hành 6 nghị quyết và quyết định chưa có tiền lệ nhằm trực tiếp hỗ trợ người lao động, người dân bị ảnh hưởng với đại dịch COVID-19. Với các nghị quyết và quyết định này, chúng ta đã huy động tới 104 nghìn tỷ đồng, hỗ trợ 68,67 triệu lượt người và trên 1,4 triệu người sử dụng lao động. Thông qua đó đã góp phần khôi phục sản xuất, ổn định đời sống nhân dân, đặc biệt là đối với lực lượng lao động.
Chúng ta đã duy trì chuỗi cung ứng lao động, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh trong khu công nghiệp, góp phần ổn định và cải thiện từng bước đời sống của nhân dân và người lao động.
Một điểm rất mới trong việc xây dựng, thực hiện các chính sách hỗ trợ là việc đổi mới ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng cơ sở dữ liệu để tránh việc chi trả hỗ trợ trùng lắp về đối tượng. Bộ trưởng có thể chia sẻ về sự thay đổi trong việc chi trả hỗ trợ này?
Trong việc ban hành các chính sách đặc thù hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động trong đại dịch và hậu đại dịch COVID-19 thì rõ ràng thời gian vừa qua đã có rất nhiều cải tiến. Cải tiến từ quy trình ban hành văn bản đến hồ sơ, thủ tục với tinh thần cố gắng nhanh nhất, gọn nhất và dễ tiếp cận nhất cho người lao động và người sử dụng lao động. Đặc biệt, trên cơ sở dữ liệu quốc gia, các cơ sở dữ liệu ngành bảo hiểm có, chúng ta đã đẩy nhanh ứng dụng tiến bộ công nghệ vào thực hiện chi trả chủ yếu qua tài khoản của người lao động.
Ví dụ như trong thực hiện Nghị quyết số 116/NQ-CP của Chính phủ, chúng ta chi tới 41.000 tỷ nhưng chỉ hỗ trợ trong vòng 3 tháng. Nếu với cách này, chúng ta làm thủ công thì thời gian kéo dài hàng năm không xong. Nhưng thông qua cơ sở dữ liệu này, tài khoản này thì việc chi trả không chỉ được thực hiện nhanh mà còn minh bạch và khắc phục được tình trạng gian lận trong việc tổ chức thực hiện. Các chính sách này đã đến rất nhanh và đúng thời điểm mà người lao động đang cần.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được thì việc xây dựng các chính sách hỗ trợ khẩn cấp không tránh khỏi những hạn chế. Ông có thể chia sẻ những bài học kinh nghiệm để xây dựng, hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội trong thời gian tới?
Tôi cho rằng là việc xây dựng các chính sách vừa qua chủ yếu mang tính chất tình thế, trong đó có nhiều chính sách nhằm giải quyết những việc tức thì, trước mắt. Rõ ràng hiện nay chúng ta phải tính bài toán căn cơ, lâu dài hơn trong xây dựng mạng lưới chính sách xã hội, hay còn gọi là lưới an sinh xã hội.
Hiện nay chúng ta đang ở mức độ là duy trì sự đảm bảo và mức độ tối thiểu. Nhưng thời gian tới, chúng ta phải tính toán đòi hỏi sự phát triển cao hơn. Khi đó người dân và người lao động hoàn toàn có thể đảm bảo ba yếu tố là phòng ngừa rủi ro, khắc phục rủi ro và chủ động ứng phó với rủi ro xảy ra.
Chỉ khi đó lưới an sinh và chính sách xã hội mới đảm bảo bền vững và toàn diện.
Bên cạnh việc đảm bảo an sinh xã hội thì việc làm và thu nhập trong năm 2023 cũng là vấn đề được rất nhiều người lao động quan tâm. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội sẽ có những giải pháp căn cơ gì để có thể phát triển được thị trường lao động năm 2023, thưa Bộ trưởng?
Hai năm qua đã đặt ra thách thức vô cùng lớn đối với toàn bộ hệ thống chính trị và với ngành lao động, các địa phương nói riêng. Khi đó, đại dịch COVID- 19 tấn công vào khu công nghiệp là thành trì cực kỳ quan trọng của nền kinh tế, đặc biệt là các khu vực kinh tế phía Nam. Khi đó, điều đáng lo nhất chính là đứt gãy chuỗi cung ứng lao động.
Thế nhưng bằng rất nhiều cách làm và bằng các chính sách khác nhau, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, đặc biệt là sự nỗ lực của người dân và doanh nghiệp, đến giờ này thì chúng ta khẳng định rằng chúng ta không những không để đứt gãy chuỗi cung ứng lao động mà đã khôi phục chuỗi cung ứng lao động một cách nhanh chóng và ổn định. Qua tổng kết, chúng tôi thấy rằng thị trường lao động của chúng ta ổn định nhanh hơn so với dự báo của quốc tế và nhanh hơn so với chính dự báo của chúng tôi khoảng 6 tháng.
Đến giờ này, trên quy mô cả nước thị trường lao động chúng ta ổn định tương đối tốt cả về quy mô và chất lượng. Tuy nhiên, vẫn còn có tình trạng thiếu hụt lao động cục bộ, nhất là thiếu hụt lực lượng lao động có trình độ kỹ thuật cao.
Trong những tháng cuối năm 2022 ở 63 tỉnh, thành phố, khoảng hơn 600 doanh nghiệp bị ảnh hưởng, thu hẹp đơn hàng khiến khoảng 53.000 lao động mất việc. Tuy nhiên, các doanh nghiệp có nhu cầu tuyển dụng lao động là hơn 300.000 lao động. Như vậy, vấn đề quan trọng ở đây là xảy ra tình trạng nơi thì thiếu lao động cục bộ nhưng có nơi thì thừa cục bộ. Do đó cần nhất, điều tiết cung cầu lao động cho phù hợp là vấn đề quan trọng nhất.
Trong năm 2023, dự báo tình trạng thiếu lao động cục bộ sẽ tiếp tục diễn ra trong quý I, quý II. Theo chúng tôi đã tính toán thì nhu cầu tuyển dụng của các doanh nghiệp khoảng 350.000-400.000 lao động ở các lĩnh vực khác nhau.
Vấn đề quan trọng là các doanh nghiệp phải có bài toán để giữ chân, thu hút người lao động. Đặc biệt, chúng ta phải có bài toán để đào tạo, đào tạo lại lực lượng lao động, đặc biệt là đào tạo đội ngũ có chất lượng cao, những người có kỹ năng cao để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của doanh nghiệp.
Thưa Bộ trưởng, gắn kết giữa phát triển thị trường lao động và xây dựng các chính sách hỗ trợ để hai lĩnh vực này cùng tạo nên một hệ thống an sinh xã hội, việc làm, thu nhập ổn định, bền vững cho người lao động sẽ được Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội thực hiện như thế nào?
Tôi cho rằng thời gian tới chúng ta sẽ gặp rất nhiều thách thức, áp lực, đặc biệt là trong bão lạm phát của thế giới, trong thu hẹp thị trường lao động, những thách thức từ doanh nghiệp và lao động. Đi liền với đó là thách thức về an sinh xã hội. Do đó, hai vấn đề này phải được giải quyết đồng bộ, không có vấn đề nào trước, vấn đề nào sau mà đều phải tiến hành tổng hợp cụ thể.
Cụ thể ở đây, chúng ta sẽ phải đối mặt với 5 vấn đề lớn. Đầu tiên là tốc độ già hóa dân số. Thời gian tới, Việt Nam sẽ một trong những nước có tốc độ già hóa dân số nhanh nhất. Già hóa dân số buộc chúng ta phải tính toán đến thị trường lao động, tính toán đến việc làm cho người trẻ, cho người cao tuổi có nhu cầu, có sức khỏe và tận dụng tiềm năng của họ.
Thứ hai là sự thay đổi của thế giới việc làm như sự điều chỉnh vấn đề di cư, vấn đề lao động chính thức, phi chính thức. Thứ ba là tác động của biến đổi khí hậu sẽ rất quyết liệt đến thị trường lao động, đời sống của người lao động. Những vấn đề này chúng ta phải tính toán ngay, đi sớm hơn so với tác động của biến đổi khí hậu.
Thứ tư là vấn đề lao động có việc làm phi chính thức, vấn đề chuyển đổi thị trường lao động, nhất là khu vực nông nghiệp sang khu vực công nghiệp. Hiện nay sự chuyển đổi này phần lớn là những việc làm thiếu bền vững, chưa thỏa đáng, trong khi đích phấn đấu là việc làm thỏa đáng, với tính bền vững cao.
Chúng ta cũng đặt ra rất nhiều khát vọng của đất nước. Nhưng muốn thực hiện được khát vọng này thì trong phát triển kinh tế, việc đầu tiên là chuyển đổi xanh, chuyển đổi số. Tôi cho rằng quan tâm nhất phải là chuyển đổi nhân lực. Chuyển đổi nhân lực phải đi trước một bước.
Do đó năm 2023 và những năm tới, vấn đề là phải hình thành một thị trường lao động linh hoạt, đồng bộ, hiện đại, bền vững và mang yếu tố hội nhập cùng với xây dựng và phát triển một hệ thống chính sách an sinh xã hội toàn diện bao trùm và bền vững. Hai vấn đề này phải tiến hành đồng bộ, căn cơ. Khi xây dựng khung chính sách đồng bộ tuyệt đối không để xảy ra tình trạng gặp đâu hay đấy, thấy gì khó khăn thì gỡ cái đó. Chúng ta phải thực hiện bài bản hơn, căn cơ hơn trong thời gian tới.
Như ông vừa chia sẻ thì năm 2003 được xác định là một năm mà khó khăn, thách thức sẽ nhiều hơn là cơ hội. Vậy thì với những lĩnh vực do ngành Lao động - Thương binh và Xã hội quản lý thì Bộ trưởng nhận diện những thách thức của mình ra sao?
Đối với ngành lao động thì sẽ có ba vấn đề lớn. Một là doanh nghiệp sẽ khó khăn hơn. Đặc biệt là quý I, quý 2/2022, những doanh nghiệp mà do thị trường thế giới tác động, thu hẹp đơn hàng thì sẽ khó khăn hơn. Điều đó sẽ dẫn đến người lao động gặp khó khăn trong việc làm, ảnh hưởng đến thu nhập. Nhưng tôi nghĩ rằng, trong quý III/32022 trở ra vấn đề cơ bản này sẽ khắc phục.
Vấn đề thứ hai là lực lượng thứ lao động phi chính thức của chúng ta còn quá lớn, chiếm tới 55%. Muốn có việc làm bền vững, an sinh bền vững thì phải giải quyết vấn đề này. Nhưng chuyển dịch này không chỉ chuyển dịch cơ học mà phải là chuyển dịch theo hướng bền vững, có chương trình đào tạo.
Vấn đề thứ ba là tình trạng nhảy việc tiếp tục xảy ra, dẫn đến việc làm không bền vững, thu nhập không bền vững, không ổn định và điều quan trọng nữa là hệ thống an sinh của chúng ta đang ở mức độ bảo đảm tối thiểu, mức thấp. Do đó đời sống nhân dân chậm được cải thiện. Đây là vấn đề chúng ta phải quan tâm vì những yếu tố rủi ro đến với người dân hiện nay còn rất lớn.
Tất cả những vấn đề này trong năm 2023 và những năm tới chúng ta phải giải quyết căn cơ, có chính sách, bước đi rất bài bản để không để ai bị bỏ lại phía sau, đó không chỉ là khẩu hiệu mà phải hành động thật sự. Hành động ấy bắt đầu bằng xây dựng khuôn khổ chính sách chứ không chỉ tuyên truyền.
Bộ trưởng trăn trở điều gì nhất để tiếp tục đẩy mạnh thực hiện các nhiệm vụ của ngành trong năm 2023?
Điều tôi rất mong muốn là xây dựng được nghị quyết chuyên đề về chính sách xã hội với tầm nhìn thông thoáng hơn, toàn diện hơn, bao trùm hơn đến năm 2045. Nghị quyết này phải được thể chế bằng các luật, hệ thống chính sách mà trọng tâm phải sửa Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Việc làm. Hai luật này sẽ là đinh chốt của toàn bộ hệ thống lao động việc làm trong thời gian tới.
Đi liền với đó là giải quyết căn cơ những vấn đề liên quan đến hệ thống chính sách về xã hội. Khi đó chúng ta sẽ vững vàng hơn, sẽ thể hiện được khát vọng của chúng ta, thực hiện được phương châm và chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: “Chúng ta không hy sinh tiến bộ, công bằng xã hội để đánh đổi lấy phát triển kinh tế đơn thuần”.
Sự tiến bộ, công bằng xã hội ấy bắt đầu từ các chính sách, những công việc cụ thể với tư duy tầm nhìn xa hơn nhưng hành động mau lẹ hơn bắt đầu từ những công việc cụ thể, bắt đầu từ chủ trương cho đến xây dựng khung khổ chính sách. Đấy là những vấn đề chúng tôi trăn trở.