Đặc biệt, tại các thành phố lớn như Thành phố Hồ Chí Minh (70%), Đà Nẵng (trên 90%)... các bãi chôn lấp đang quá tải, có khả năng gây ô nhiễm môi trường nên thường gặp phải sự phản đối của người dân.
Hiện có tới 71% tổng lượng chất thải (tương đương 43 nghìn tấn/ngày) trên toàn quốc xử lý bằng phương pháp chôn lấp (không bao gồm lượng bã thải và tro xỉ từ các cơ sở chế biến phân compost và các lò đốt); 16% tổng lượng chất thải (tương đương 9,5 nghìn tấn/ngày) được xử lý tại các nhà máy chế biến sản xuất phân compost; 13% tổng lượng chất thải (tương đương 8 nghìn tấn/ngày) được xử lý bằng phương pháp đốt.
Các công nghệ xử lý đang áp dụng ở Việt Nam (kể cả các công nghệ nước ngoài) ngày càng đa dạng, nhưng hiệu quả thực tế chưa được tổng kết, đánh giá một cách đầy đủ. Một số công nghệ trong nước đang triển khai áp dụng bước đầu đã đem lại hiệu quả nhất định.
Các công nghệ được nghiên cứu trong nước hầu hết do các doanh nghiệp tư nhân đảm nhiệm nên việc hoàn thiện công nghệ cũng như triển khai ứng dụng trong thực tế còn gặp nhiều trắc trở. Các công nghệ nước ngoài khi sử dụng tại Việt Nam gặp một số khó khăn do chất thải rắn sinh hoạt phần lớn chưa được phân loại tại nguồn, độ ẩm cao, điều kiện thời tiết nhiệt đới, lượng chất thải rắn tiếp nhận thấp hơn công suất thiết kế hoặc không ổn định, đầu tư khá cao dẫn đến chi phí xử lý cao.
Phương pháp chôn lấp
Đây là phương pháp đang được áp dụng phổ biến tại Việt Nam. Trong tổng số 904 bãi chôn lấp hiện nay chỉ có chưa đến 20% bãi chôn lấp hợp vệ sinh, còn lại là các bãi chôn lấp không hợp vệ sinh hoặc các bãi tập kết chất thải cấp xã.
Đối với các bãi chôn lấp hợp vệ sinh, một số có hệ thống thu gom khí, một số không; hệ thống xử lý nước rỉ rác trong nhiều trường hợp không đạt quy chuẩn kỹ thuật quốc gia. Tại các thành phố lớn như Hà Nội, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh, trong một số trường hợp việc quản lý, vận hành bãi chôn lấp đi kèm với trách nhiệm thu gom, xử lý nước rỉ rác phát sinh. Trong trường hợp khác, việc xử lý nước rỉ rác được giao cho đơn vị khác với đơn vị quản lý, vận hành bãi chôn lấp.
Phương pháp thiêu đốt
Cả nước có 381 lò đốt, trong đó chỉ có khoảng 294 lò (chiếm khoảng 77%) có công suất trên 300 kg/h, đáp ứng yêu cầu theo quy định của Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia QCVN61:2016/BTNMT về lò đốt chất thải rắn sinh hoạt. Nhiều lò đốt, đặc biệt là lò đốt cỡ nhỏ không có hệ thống xử lý khí thải, hoặc hệ thống xử lý khí thải không đạt yêu cầu về môi trường.
Áp dụng công nghệ này, chất thải rắn sinh hoạt được thu gom và đưa vào các lò đốt có buồng đốt sơ cấp và thứ cấp để thiêu đốt chất thải, giảm đáng kể tỷ lệ chất thải phải chôn lấp. Phần lớn lò đốt được thiết kế chế tạo tại Việt Nam, một số được nhập khẩu từ nước ngoài. Đặc điểm của lò đốt là yêu cầu vận hành phức tạp, đòi hỏi có trình độ kỹ thuật phù hợp và yêu cầu cao đối với giám sát khí thải sinh ra từ quá trình xử lý.
Theo Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới giai đoạn 2016 - 2020, được ban hành tại Quyết định số 1980/QĐ-TTg ngày 17/10/2016 của Thủ tướng Chính phủ, một trong các tiêu chí về môi trường là chất thải rắn trên địa bàn và nước thải khu dân cư tập trung, cơ sở sản xuất - kinh doanh được thu gom, xử lý theo quy định. Theo tiêu chí này, hiện có một số địa phương đầu tư cho mỗi xã một lò đốt cỡ nhỏ để xử lý chất thải rắn, song các lò đốt này không đáp ứng yêu cầu tại Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia QCVN 61: 2016/BTNMT về lò đốt chất thải rắn sinh hoạt.
Mặt khác, một số lò đốt đáp ứng yêu cầu theo Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia QCVN 61: 2016/BTNMT, nhưng khi áp dụng tại các địa phương đối với chất thải rắn sinh hoạt có nhiệt trị thấp, độ ẩm cao, trình độ vận hành của các công nhân còn yếu kém, không tuân thủ các yêu cầu kỹ thuật (như nhiệt độ cháy theo yêu cầu), hoặc vận hành hệ thống xử lý khí thải nên không đáp ứng yêu cầu về bảo vệ môi trường. Việc này dẫn đến khả năng không kiểm soát được chất thải thứ cấp phát sinh, nhất là đối với dioxin/furan, đồng thời không phù hợp với mục tiêu xây dựng các khu xử lý chất thải tập trung.
Phương pháp thiêu đốt thu hồi năng lượng
Đặc điểm của công nghệ này bên cạnh chức năng tiêu hủy chất thải, năng lượng phát sinh được dùng để sản xuất điện. Có nhiều phương pháp thu hồi năng lượng từ chất thải rắn sinh hoạt, bao gồm đốt trực tiếp thu hồi nhiệt để phát điện, phương pháp đốt thiếu oxy, khí hóa trước khi được sử dụng để thu hồi năng lượng, đồng xử lý trong lò nung xi măng…
Hiện mới có một số cơ sở áp dụng phương pháp này như ở Cần Thơ, Quảng Bình... trong khi nhiều địa phương đang trong quá trình xem xét, nghiên cứu kinh nghiệm áp dụng phương pháp đốt thu hồi năng lượng để phát điện là Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Hà Nội, Bắc Ninh... Một số nhà máy sản xuất xi măng cũng đang nghiên cứu phương pháp đồng xử lý chất thải trong lò nung xi măng, nhưng mới chỉ tập trung vào chất thải công nghiệp và một số loại chất thải rắn sinh hoạt phù hợp. Việc xử lý tro xỉ phát sinh cần được quan tâm để đảm bảo không phát sinh ô nhiễm thứ cấp từ chất thải này.
Phương pháp sản xuất phân compost
Cả nước có 42 cơ sở áp dụng phương pháp sản xuất phân compost. Trong khi một số có thể sản xuất sản phẩm có sức tiêu thụ khá tốt thì một số khác không tiêu thụ được sản phẩm. Nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ việc chất thải rắn sinh hoạt không được phân loại triệt để, dẫn đến sản phẩm phân compost còn chứa nhiều tạp chất nên khó tiêu thụ. Sản phẩm phân compost chủ yếu được dùng cho các cơ sở lâm nghiệp, cây công nghiệp. Hơn nữa khoảng cách từ các cơ sở xử lý chất thải đến nơi tiêu thụ khá xa. Ngoài ra, trong các phương pháp xử lý chất thải rắn còn có phương pháp cacbon hóa, nhưng việc áp dụng hiện còn đơn lẻ.
Bài cuối: Cần thống nhất về quản lý nhà nước