Ông Thống xuống xe, rời khỏi bến Kim Liên lúc trời vừa sẩm tối. Phố phường đã sáng trưng ánh điện.
Thoát khỏi đám xích lô, xe ôm bủa đến nèo kéo, ông thở phào nhẹ nhõm và bước vội. Khoác chiếc túi du lịch sờn căng phồng, toàn quần áo cũ và quà cáp bà con gửi, ông giơ tay xin đuờng, tay kia ông dắt cu Tý vượt qua ngã tư nườm nượp xe cộ.
Đến hàng nước ngay vỉa hè, thấy bà lão ngồi bán có khuôn mặt phúc hậu đon đả mời khách, ông Thống liền nghỉ chân. Ông mua cho cu Tý chiếc bánh mỳ lót dạ. Còn ông một lúc làm vài chén trà nóng và thong thả rít thuốc lào.
Bụng đói, ông Thống vẫn chưa muốn ăn chút nào. Ngồi tàu xe cả ngày đường từ Vinh ra, giờ mới thấm mệt. Nhưng nghĩ đến cuộc gặp gỡ sắp tới với ông Vụ trưởng, ông Thống phấn chấn hẳn lên “Chắc bác ấy thật bất ngờ và mừng lắm”, ông cũng nghĩ nên dành cái bụng để ăn cơm với gia đình “cho phải phép”.
Cu Tý nhai bánh nhoen nhoẻn, mắt như dán vào đoàn tàu hỏa đang chạy xình xịch vào ga. Lần đầu tiên Tý được theo ông về quê xứ Nghệ, được qua thủ đô Hà Nội cậu ta khoái lắm. Với nó cái gì cũng lạ lẫm khác hẳn vùng rừng Thuận Châu. Nó hỏi ông đủ điều, nhiều câu hỏi ông cũng phải lắc đầu xin chịu. Thật tội nghiệp cho nó, bố mẹ làm ở lâm trường đã bỏ nhau, nó về ở với ông bà ngoại dăm năm nay. Học hành chẳng ra sao, mười hai tuổi đầu mới học lớp 3, còn ngờ nghệch lắm. Ông Thống vẫn gọi nó là thằng cu và dồn hết tình cảm vào đứa cháu duy nhất. Khổ nỗi cái vốn chữ nghĩa đọc thông viết thạo của ông chẳng giúp được nó học hành tử tế. Nhưng được cái cu Tý ngoan ngoãn, chịu khó giúp ông bà chăn bò, lấy củi. Từ ngày cu Tý về ở với ông bà, mái tranh nghèo trở nên ấm áp hơn.
Ông Thống lên Tây Bắc từ những năm sáu mươi, làm công nhân giao thông và đã nghỉ hưu hơn mười năm nay. Bà là người cùng làng theo ông lên làm cấp dưỡng ở Hạt và cũng đã về mất sức. Số ông bà quả vất vả, cả hai đều mồ côi sớm, có mụn con gái độc nhất thì đường nhân duyên trắc trở. Mảnh đất miền Tây Bắc đã trở thành quê hương thứ hai của ông. Làng cũ chỉ còn vài ba người họ hàng xa, nên hàng chục năm nay ông mới thu xếp về thăm quê. Nhân cu Tý nghỉ hè, ông bán đi lứa lợn lấy tiền hai ông cháu đi đường. Ở quê ra, trước khi trở lại Tây Bắc, ông định bụng ở Hà Nội vài ngày thăm người quen. Rồi thì cho cu Tý đi thăm lăng Bác, đi chơi cho biết Bờ Hồ... Khi về nó sẽ khoe khắp xóm cho mà xem. Ở cái nơi đèo heo hút gió, ấy là sự kiện trọng đại đối với bọn trẻ.
Ông Thống liền sực nhớ đến mảnh giấy nhỏ, gọi là tấm “Các phê dít” gì đó, ông lần túi lấy ra tờ danh thiếp in tên và địa chỉ của ông Vụ trưởng X., ngắm nghía lại một hồi, ông nhấp chén trà rồi hỏi bà hàng nước:
- Bà làm ơn cho hỏi thăm phố Hàng Bát có gần đây không ạ?
- Cũng không xa lắm đâu. Bác đi xích lô độ 10 phút là tới.
Bà lão quệt miếng trầu và tiếp lời:
- Hẳn ông cháu đây mới ở quê ra thăm người nhà ?
- Thưa bà, vâng! À mà... người quen thôi bà ạ!
Ông Thống buột miệng nói vậy. Nhân quán thưa khách, ông kể cho bà lão nghe chuyện ông quen biết ông Vụ trưởng rất tình cờ.
Dịp ấy vào mùa đông, cách đây hơn một năm rồi, xóm núi của ông đang chìm trong màn sương đêm dầy đặc. Mới 9 giờ tối mọi nhà đã đóng cửa ngủ sớm. Riêng nhà ông còn đốt lửa sưởi. Nghe tiếng ô tô lịm dần trước cổng, ông sai cu Tý xách đèn ra coi. Lát sau cu Tý quay vào nói: “Có hai bác ở tận Trung ương đi công tác ở Lai Châu về, qua đèo Pha Đin thì hỏng xe ông ạ”. Thấy vậy ông Thống ra mời khách vào nhà uống nước, ông thủ trưởng to béo, nom bệ vệ bảo anh tài xế cùng vào. Hỏi chuyện thì được biết xe bị mất phanh, có sửa xong cũng tới khuya! Mà đường tới thị xã Sơn La còn vài chục cây số nữa, đường núi đi đêm rất nguy hiểm. Ông Thống ái ngại cho họ và thân tình mời thầy trò nghỉ lại nhà. Ông Vụ trưởng thoáng lưỡng lự, đưa mắt nhìn anh lái xe như dò hỏi. Lái xe kêu mỏi mệt, ông quyết định nghỉ lại gia đình. Biết họ chưa kịp ăn tối, ông Thống lập tức bảo bà vợ và cu Tý làm cơm. Nhà sẵn rau dưa, gà trong chuồng, một loáng bày xong mâm cơm. Bụng còn no, ông vẫn ngồi vào mâm tiếp khách, nhâm nhi chén rượu. Đã lâu mới có khách xa, lại là cán bộ Trung ương, ông được dịp dốc bầu tâm sự, hỏi han đủ chuyện. Ông Vụ trưởng cũng xởi lởi kể chuyện Mỹ, chuyện Tàu, nghe rối tinh rối mù, chẳng hiểu thời cuộc ra sao. Mãi gần 11 giờ, chủ khách mới dứt chuyện đi ngủ. Nghĩ “đêm nằm bằng năm ở”, ông nhường khách ngủ giường đệm bông lau, thể hiện cái tình người miền núi. Hôm sau bà Thống dậy rõ sớm thổi nồi cơm nếp ăn sáng. Xe sửa xong, trước lúc đi ông Vụ trưởng rút ví trả tiền ăn, may mà bà lão vội gạt đi không nhận: “Ấy chết, sao bác làm vậy. Ăn uống đáng là bao, toàn cây nhà lá vườn cả. Bác vào chơi là quý hoá rồi”.
Phút chia tay ông ấy thật lưu luyến, trước lúc lên xe ông Vụ trưởng rối rít cảm ơn, lại còn bắt tay ông, nắm tay bà, cả thằng cu Tý nữa chứ. Lên xe rồi ông Vụ trưởng còn ngoái lại:
“Ông bà nhớ cho đấy nhé, cứ địa chỉ ấy, về Hà Nội mà không vào chỗ tôi chơi vài ngày là tôi trách cho đấy”.
Mỗi lần nhớ lại lời mời của ông Vụ trưởng, ông Thống lại có cái cảm giác háo hức đến lạ. Ông vội đứng dậy, xốc lại áo quần và giục cu Tý đi, xuýt nữa thì ông quên trả tiền cho bà hàng nước.
Ông Thống ra cột đèn đường gần đó. Nom ông xích lô đạp xe qua có vẻ hiền lành, ông đánh tiếng gọi. Ngã giá tiền xong xuôi, ông và cu Tý lên xe ngồi, bà hàng nước đã dặn ông như vậy.
Xe lăn bánh, anh xích lô nhướn người đạp. Phố xá người đông như kiến, xe cộ ầm ĩ, xe ba bánh mà lạng lách đến tài, chẳng hề va quệt. Cu Tý trố mắt nhìn cửa hàng, cửa hiệu đèn đỏ xanh nhấp nháy. Ngồi xe mà ông Thống cứ bồn chồn, đầu óc mông lung “Liệu bác ấy có nhà không nhỉ? Nhỡ bác ấy đi công tác vắng, người nhà biết mình là ai...”, Ông bất giác thở dài. Quả thực ở Hà Nội này, ngoài ông X. ra ông chẳng quen biết người nào khác. Chỗ ngủ thì ông chẳng cần lắm, vào quán trọ nào chả ngả lưng được. Nhưng còn việc cho cu Tý đi chơi mấy nơi đó, biết nhờ cậy ai? Phố phường náo nhiệt, đường đi lối lại như bàn cờ, ông biết đâu mà lần, thật lớ ngớ như chim chích lạc rừng. Hỏi thăm người ta nhiều cũng ngại, không khéo lại mắc lừa như bỡn. Mấy bà nhà quê bảo: Hà Nội kẻ cắp thần tình, đến công an cũng chịu. Bởi thế, ông cẩn thận nhìn trước, ngó sau, ngồi hàng nước cũng khư khư ôm túi. Tiền nong, đồ đạc cũng chẳng có nhiều, nhưng xểnh ra để mất thì gay to, ở giữa đường, giữa chợ ông biết ngửa tay xin ai. Nhìn cảnh xích lô giành giật khách đã hãi rồi, nếu thuộc đường xá ông thà đi bộ còn hơn. Còn mỗi cái hy vọng là gặp được ông X., ông mới có cơ hội cho cu Tý đi chơi phố. Ông tính rồi, nếu người nhà bận, ông sẽ gửi đồ lại “Ông, cháu đi người không, có gì mà sợ”, nghĩ thế ông lại vui lên. “May mà còn quen bác ấy...”
Mải nghĩ, ông không để ý đoạn đường, khi xe phanh gấp, anh xích lô nhảy phốc xuống lên giọng: Bố già cho xin mấy đồng”, mới hay ông đã tới nơi.
Bước lên vỉa hè sáng điện, ngó cổng sắt, trụ tường rào có biển ghi rõ số nhà như trên tấm danh thiếp, ông bảo cu Tý “Vào nhà bác Vụ trưởng, cháu thưa gửi cho lễ phép nghe chưa”, cu Tý vâng dạ lí nhí rồi theo ông vào sân.
Vào ngôi biệt thự uy nghi, cửa kính, cửa chớp sáng trắng đèn nêông, bước lên bậc tam cấp, ông Thống bỗng hồi hộp, run rẩy. Sau giây lát trấn tĩnh lại ông khe khẽ gõ cửa.
Cửa gỗ hé mở, cậu thanh niên chừng tuổi mười tám ngó đầu ra, chằm chặp nhìn ông khách lạ quần áo xuềnh xoàng rồi hất hàm:
- Ông già cần gì?
- Bác hỏi thăm đây có phải nhà ông Vụ trưởng X.?
- Rồi. Cụ khốt đang ăn cơm, ông vào đi.
- Kéo rộng cửa, cậu quay vào dỏng tiếng: “Bố, có ai gặp kìa”.
Ông Thống chặc lưỡi bước vào, căn phòng khá rộng, sân lát gạch men hoa bóng láng. May vấp phải tấm thảm chùi chân không thì xuýt nữa cả ông và thằng cháu lê dép vào nhà.
Nhác trông người đàn ông hiện ra, mặc bộ đồ ngủ sọc dưa, nhận ra ngay Vụ trưởng X., ông Thống vồn vã:
- Chào bác, bác vẫn khỏe chứ ạ?
- Vâng, cảm ơn, ông X. đáp.
Nhưng dường như chưa nhận ra khách, ông Vụ trưởng nhướn mục kỉnh và khẽ e hèm: “Ông là...”
- Tôi là Thống, Dương Thống ở Thuận Châu đây. Bác nhận ra chưa nào.
- À, ờ phải rồi, tôi biết rồi.
Lại gần ông Thống, ông Vụ trưởng chìa bàn tay múp míp ra, cái bắt tay hờ hững của bề trên. Giọng ông nhạt thênh:
- Mời ông ngồi chơi. Tôi đang dở bữa tối một chút.
Bảo vợ pha ấm nước, ông quay ngoắt sang phòng ăn.
Ông Thống hẫng người, cứ ngỡ như gặp nhầm phải người lạ. Ngồi xuống đệm ghế xa lông, ông ôm sát cu Tý vào lòng, mà vẫn có cảm giác lạc lõng, chơi vơi...
Bà X. đã luống tuổi, người khô gầy, cặp môi mỏng dính. Rót nước mời khách, bà với tăm xỉa răng, giọng ngọt xớt:
- Ông ở quê ra chơi hẳn có việc gì?
- Dạ không… tôi ở mãi gần Tây Bắc về, nay qua ghé thăm ông nhà.
- À, ra thế. Nghe nói, mạn rừng lắm mật ong, măng khô, chắc là rẻ lắm ông nhỉ?
- Dạ phải...
Ông Thống ấp úng trả lời, rồi khẽ thở sượt: “Chết thật, đến chơi nhà người ta mà mình đến tay không, chẳng có món quà gì”.
Bà X. với đĩa bánh quy trên tủ đặt xuống bàn, rồi dúi vào tay cu Tý vài chiếc, bà giục: “Ăn đi cháu. Của ăn là của được” rồi quay đi dọn mâm.
Nhìn cu Tý nhai bánh ngon lành, bất giác ông cay xè sống mũi “tội nghiệp, nó còn nhỏ dại quá, đâu biết người ta rẻ rúng mình”. Nhấp chén nước mà miệng ông đắng ngắt.
Xong bữa cơm, ông X. lên ngồi tiếp chuyện. Buông mấy lời thăm hỏi chiếu lệ, ông che tay ngáp, chỉ nghe cánh quạt trần vù vù quay. Gượng trả lời cho xong, ông Thống thoái lui, bảo cu Tý chào bác ra về. Ông Vụ trưởng lúc này mới mời rơi một câu: “Hay là, hai ông con nghỉ ở đây cũng được”. Ông Thống chối đây đẩy: “Mai xe chạy sớm, không dám phiền hai bác”.
Hà Nội đêm hè không khí dường như oi ngột hơn. Dáng người lênh khênh, ông Thống tay dắt cu Tý qua đường, nom thất thểu như người hành khất. Bỗng ông quay sang dặn cu Tý: “Về nhà cháu nhớ bảo bà: Ông đánh mất địa chỉ, nên không gặp được bác ấy...”.
Nhà Sáng tác Đại Lải 8/2012