Khi đứa trẻ cuối cùng được mẹ đón về, trường mầm non tư thục Sơn Ca trở nên vắng lặng. Khác hẳn với trước đó một lúc là tiếng trẻ con nói, cười, khóc… Tiếng cô giáo dỗ có, dọa có và tiếng ba mẹ đến đón nựng nịu con. Bà Nhung đi từ tầng trên xuống văn phòng. Giờ này chỉ còn cô Loan hiệu trưởng kiêm thủ quỹ kiêm kế toán. Cô Loan đang cất vội xấp tiền học phí một phụ huynh mới đóng vào két sắt, chuẩn bị ra về.
- Hôm nay không có ai hỏi gì cô hả cháu? Bà Nhung hơi hơi thẹn khi thấy mình buột miệng hỏi câu này.
- Tại cô hết. Khi người ta đến, đuổi như đuổi tà. Giờ vắng lại nhớ chứ gì?
Nhớ - một từ ngắn gọn, khô khốc vậy mà làm bà đau khổ suốt bao năm qua. Nhớ đến điên cuồng, thắt ruột thắt gan khi ông cưới bà về… để đó rồi vào chiến trường. Chồng đi, sống chết trong gang tấc nên người vợ trẻ như bà ở nhà vừa nhớ vừa lo sợ. Đến ngày phát hiện đứa con bắt đầu quẫy đạp trong bụng mình nỗi nhớ chồng cũng chẳng nguôi ngoai. Nhớ và mong ước sẽ khoe khi chồng trở về đứa con bụ bẫm và chắc chắn sẽ giống ba như đúc như tạc.
- Ừ, cả tuần nay không có tin… người ta. Nhớ gì? Là cô lo “họ” có bệnh đau gì không… Bà Nhung nói khi cô Loan xách giỏ đứng lên. Bà đi ra khỏi phòng cho cô hiệu trưởng đóng cửa.
- Nếu là con, con để chú quay lại… Cô Loan nói thêm khi đã ngồi trên xe…
Còn lại một mình trong căn nhà- giờ là trường học rộng thênh, bà Nhung trở lên lầu. Dưới sân chỉ còn anh bảo vệ, cánh cổng cao, nặng nề được khóa cẩn thận.
Tầng lầu trên cùng là “góc riêng” của bà. Phía trước một bàn thờ Phật, thờ tổ tiên. Phía sau bức tường ngăn là nơi đặt bàn làm việc, giường ngủ. Tính ra, diện tích sử dụng của một người như bà chỉ cần có thế. Vậy mà khi xây nhà, bà đã làm hết khả năng của mình cho thằng Thắng. Bởi bà nghĩ đến tương lai khi nó du học về, nó sẽ cưới vợ. Bà sẽ có những đứa cháu nội để nghe nói chuyện bi bô suốt ngày. Bà thiết kế nhà đủ tất cả phòng ốc tiện dụng nhất. Sáu phòng ngủ. Cho người nhà và cho khách khứa. Phòng đọc sách, phòng giặt phơi đồ, phòng karaoke, phòng học cho những đứa cháu sau này… Tính là vậy nhưng căn nhà mênh mông đó cũng là nơi nhiều nhất vẫn chỉ có hai người là bà với thằng Thắng. Hai mẹ con có khi trong nhà phải gọi điện nói chuyện kẻo đi tìm nhau… mỏi chân! Bà mơ ước con mình thành đạt, giỏi giang. Thì đó, giờ nó thuộc vào hàng công dân… đa quốc gia. Đi đi về về liên tục chứ có ở nhà quá một tuần đâu.
Xã hội tự sắp xếp môn đăng hộ đối. Bà Nhung nghĩ vậy khi Thắng đưa bạn gái về nhà chơi. Cô bé dễ thương, nhà giàu còn gấp mấy lần thằng Thắng. Nhưng, giàu có đôi khi… bất tiện! Trước ngày cưới, một cuộc họp của hai gia đình được sắp đặt. Bà thông gia: “Chị ơi, em có mỗi đứa con gái nên cho em bắt rể”. Bà Nhung: “Em ơi, thằng Thắng qua bên đó, mình chị biết làm gì trong căn nhà quá rộng này?”. Con dâu bà đưa giải pháp: Ở riêng. Tụi con dư khả năng làm nhà và muốn có không gian riêng. Không ảnh hưởng đến ai. Nhà hai mẹ, thỉnh thoảng tụi con về thăm. Hai bà mẹ tưởng nhà đông người hơn cho bớt quạnh quẽ. Giờ mỗi nhà vắng thêm một người…
Không biết làm gì cho hết phòng khi con dọn ra ở riêng, bà Nhung treo bảng cho thuê nhà và từ đó, căn nhà năm tầng, có vườn có sân của bà biến thành trường mầm non tư thục Sơn Ca này đây…
Lại là nỗi nhớ dẫn dắt bà Nhung quay ngược về quá khứ khi kéo tấm nệm ra thực hành bài yoga. Định tâm làm sao được khi ông ấy tự nhiên biệt tăm tích thế này…
Bà đã sinh thằng con bụ bẫm, sau chiến tranh, chồng bà cũng trở về bình an như bà mong mỏi. Bà Nhung những tưởng cuộc đời của mình giờ đã sang trang, đã hết nhớ mong, hết sống trong âu lo, cầu khấn suốt đêm ngày. Ngày thu dọn để theo chồng cùng vào Nam làm kinh tế mới, bà lại háo hức như cô dâu mới về nhà chồng lần nữa. Háo hức hơn khi được nghe từ miệng chồng: “Vào trong đó, em và con khỏi lo đói, cơm trắng tha hồ ăn chứ không ăn độn như ở quê mình”…
Vốn là cô gái quê giỏi giang, mạnh khỏe nên bà cùng chồng phát nương, làm rẫy ngày này qua tháng khác. Đất bom cày đạn xới giờ người cày. Xanh tươi ngút ngàn. Khoảng đất khai hoang ngày càng rộng ra. Cuộc sống vất vả nhưng vui tươi, đầm ấm không gì bằng. Bà thích nhất là những lần cùng chồng vác cuốc từ rẫy về nhà trong ráng chiều ánh hồng lên sau cơn mưa. Cầu vồng bảy sắc rực rỡ làm cho nụ cười bà rạng ngời hơn và bao mệt nhọc tiêu tan hết. Anh nhìn xem, màu của ráng chiều thật đẹp. Khác với vẻ háo hức của người vợ trẻ, người chồng chỉ ậm ừ cho qua. Có khi bà hỏi cắc cớ: “Đố anh ráng chiều màu gì?”. Người chồng thường im lặng hoặc có khi gắt: “Mệt mỏi gần chết. Cày như trâu cả ngày để vỡ đất, ở đó mà mơ mộng hão huyền”… Sau đó, thỉnh thoảng, bà bất giác thấy chồng thở dài, nhìn xa xăm như lo lắng điều gì…
Cho tới một hôm mệt quá bà ở nhà và ngủ thiếp một giấc dài. Thức dậy đã xế chiều. Nghĩ mình nên đem thức ăn cho chồng, bù cái tội ngủ cả ngày để chồng làm một mình. Mắt người vợ trẻ dáo dác tìm chồng… Ánh mắt khựng lại khi nhìn về phía cuối rẫy. Chồng bà đang ngồi bên cạnh một người đàn bà lạ, tay trong tay nhau. Mái đầu người đàn bà đặt âu yếm trên vai ông. Đứa bé gái bằng tuổi thằng Thắng đứng tần ngần bên cạnh với cái hoa dại xoay xoay trong tay.
Người vợ trẻ là bà Nhung hồi đó bước lại. Cố gắng để đôi chân không khuỵu xuống. Cố gắng để nước mắt không tuôn rơi.
Người chồng và người lạ cùng ngước mắt lên một lúc. Đứa bé gái sợ dúm dó sà vào lòng mẹ khi thấy một người cầm cuốc phăm phăm bước về phía cả ba người…
Không cần lời giải thích của chồng khi gương mặt con bé, ánh mắt con bé chẳng khác nào thằng anh (hay em?), nó là thằng Thắng con bà đang chờ ba mẹ trở về sau một ngày làm rẫy.
Không cần nghe một lời nào nữa, bà Nhung quăng cây cuốc và bỏ chạy về nhà, một mình…
Những ngày giằng xé đến nhói lòng khi trong nhà có hai mẹ con người lạ đến “tá túc”. Ông chồng im lặng như chờ đón tất cả sự giận dữ của người vợ trút xuống. “Người lạ” ẩn nhẫn chịu đựng sự im lặng đáng sợ của người vợ chính thức. Người vợ câm lặng cho nỗi đau bẽ bàng. Hóa ra, khi mình chờ chồng đi qua cuộc chiến, khi mình mong mỏi chồng chân cứng đá mềm và lo lắng không có ai bầu bạn, sẻ chia thì ông đã có người thương yêu bên cạnh như thế này đây… Hóa ra, đó là lý do ông tất bật xuôi Nam sau ngày trở về. Hóa ra, đó là nguyên nhân để lâu lâu ông vắng nhà vì “đi thăm đồng đội”… Căn nhà bên suối, bên rẫy không còn hữu tình. Ráng chiều với bà Nhung không còn thắm thiết nữa. Tất cả là một màn đêm sắp buông với sự bối rối, khó xử của một căn nhà thừa thãi một vài người. Duy chỉ có hai đứa trẻ vô tư vẫn chơi với nhau. Tình máu mủ ruột rà thật lạ lùng, nó tự níu nhau mà đến…
Không thể chịu nổi sự bức bối, uất ức thêm nữa, bà Nhung dẫn con trai đi với lời nguyền cho ông hết nhìn mặt vợ con.
Bà xin vào làm cho một nông trường cao su xa xôi hơn, hẻo lánh hơn để ông không còn tìm thấy mình, để quên đi những nhọc nhằn, cả những ngày hạnh phúc đã qua. Để sống, để quên, để con không thua kém ai, bà làm tất cả mọi việc. Công nhân, cô giáo giữ trẻ, cán bộ đoàn hội rồi cán bộ quản lý… Tất tần tật mọi việc bà đều làm tốt với tư chất của người không chịu kém cạnh ai, với cả sự căm hận người chồng rằng anh đừng tưởng không có anh, mẹ con tôi sẽ khổ sở, anh cứ chống mắt mà coi…
Chồng bà Nhung dò hỏi và tìm ra nơi vợ con sinh sống khi bà đã giàu có, con trai đã vào đại học. Tất cả những uất ức, căm giận kết lại thành những lời độc địa nhất bà dành cho ông. Ông về đi. Tôi tuyệt đối không chịu cảnh chồng chung. Biết thế này ngày xưa tôi cầu cho ông chết quách đi chứ không ngày nào cũng cầu mong ông lành lặn quay về… Thằng Thắng sợ mẹ buồn nên khi bà cấm cửa ông, nó không dám can ngăn mẹ. Thỉnh thoảng, nó lén lút thăm ba và con Thắm- nghe đâu cũng là một nữ sinh vừa đẹp vừa học giỏi…
Đói bụng. Sau buổi tập yoga, bà đi xuống bếp xúc tô cơm ăn. Phía văn phòng, người bảo vệ đang coi phim bộ Hàn Quốc, Trung Quốc gì đó…
Công việc cuối ngày của bà Nhung là coi sổ sách. Tiền thuê trường cô Loan mới gửi hồi sáng. Tiền mủ cao su hàng tháng người quản lý trang trại cũng mới đưa về. Mai lại đến hạn bà “thảy” vào ngân hàng để những con số không trong tài khoản dài hơn. Cũng chẳng biết làm gì khi tiền tiêu không hết. Bà cười và chua chát nghĩ thế khi nhìn quanh căn phòng rộng… Nhớ ngày đầu cô Loan mới tới thuê nhà, bà nói nửa đùa nửa thật: “Con thuê cô làm việc gì đó cho vui nhé? Việc gì cũng được trong ban giám hiệu. Nghỉ hưu, ở không buồn quá!”. Tưởng cô Loan đồng ý liền nào ngờ cô trả lời dứt khoát: “Không được cô à. Con bỏ đồng tiền ra kinh doanh phải tính toán cẩn thận mới có lãi chứ. Có thể cô từng là một cán bộ quản lý của cơ quan nhà nước nhưng…”. “Không đủ sức làm chứ gì?”… Câu chuyện “tuyển nhân sự” lơ lửng tại đó. Bà Nhung biết sự khó nói của Loan. Nhưng bà thỉnh thoảng vẫn xuống nhà làm không công cho cái trường tư ngày một nhiều trẻ con ngoại tỉnh, một thế hệ con công nhân này. Bà xuống tầng dưới để dỗ dành khi nghe tiếng con nít khóc, để nghe rõ hơn tiếng người chứ không chỉ nghe lao xao vọng lên tầng trên… Cô Loan biết làm ăn thật. Nội thất căn nhà chuyển hết vào nhà kho hoặc bà Nhung đem cho bà con. Phòng ngủ thành lớp học. Trên tường vẽ Tom, Jerry, Vịt Donal… Trước mỗi cửa phòng chắn ngang vài thanh sắt, vài chục đứa trẻ ăn chơi ngủ nghỉ cả ngày ở đó.
Không biết sao ông lại tìm ra căn nhà là trường học này của bà Nhung. Từ ngày bà bỏ quê lên phố, họ lại bặt tin nhau. Ngày ông đến tìm, bà mừng lắm nhưng cố giấu kín cảm xúc. Bà đã kêu bảo vệ trường đuổi ông đi. Ông gọi điện thoại vào máy di động của bà, bà tắt máy, ngắt nguồn. Ông gọi vào máy bàn, bà Nhung bảo cô Loan đừng nghe hoặc nói tui đi vắng…
Miên man với dòng nhớ, bà Nhung nghe tiếng chuông cổng. Ai lại đến vào lúc gần nửa đêm thế này? Lẽ nào là ông ấy?
Con trai bà tự lái xe hơi đến. Nó thông báo ngắn gọn: “Em Thắm mới gọi cho con báo dì Thúy mất rồi. Mẹ thay đồ đi với con. Nghĩa tử là nghĩa tận mà mẹ…”.
Như người vô hồn, bà Nhung lật đật đi theo con trai.
Hóa ra, bà sống cách “gia đình họ” có gần hai mươi cây số. Hóa ra, con bà thuộc làu đường đến nhà ba nó từ mười mấy năm nay. Xe nó cứ bon bon từ đường lớn đến đường nhỏ, đến con hẻm dài và căn nhà vườn bình yên nơi cuối đường…
Thắm mắt đỏ hoe khoanh tay: “Con thưa má!”. Bà Nhung không gặp lại con bé từ ngày bỏ nhà, bỏ rẫy dẫn con đi. “Thưa ngoại đi con!”, Thắm nói ân cần với hai đứa con trai của mình. Hai thằng bé ngạc nhiên tròn mắt nhìn bà ngoại đang nằm im trên giường chờ khâm liệm và một ngoại “trên trời rơi xuống” đứng tần ngần giữa nhà.
“Em đến à? Cảm ơn em!”. “Ông cảm ơn cái gì? Là tôi đến… cho phải phép”. “Ừ. Em nói sao cũng được. Anh và… cô ấy nợ em lời xin lỗi. Cô ấy vẫn ân hận mãi…”. “Khỏi. Ông không cần nói gì lúc này”. “Anh chuyển về đây và đã bán hết đất đai nhà cửa nơi cũ. Phần của em và con anh vẫn để dành lại đó, không đụng tới. Cô ấy cứ giục anh đi tìm em mãi, trả lại những gì là công sức của em... Những lần đến tìm, là anh cố tình nói chuyện có trước sau nhưng em đuổi anh về, có cho nói gì đâu?”. “Tôi đã bảo ông không nói gì nữa trong lúc này”... Những lời nhấm nhẵng của bà Nhung làm ông khựng lại. Câu chuyện rơi vào lòng đêm. Tiếng côn trùng nỉ non. Mọi người vẫn thức lo cho người quá cố được yên nghỉ với những nghi lễ cuối cùng... Quá ít người thân. Giá mà bên cạnh mình nhiều người hơn khi nằm xuống. Bà Nhung nghĩ thế khi thầm biết từ nay bao oán trách cũng sẽ kéo nhau mà đi khỏi tâm trí mình...
“Cô ấy muốn hỏa táng và đưa tro cốt về rải ở khúc sông quê nhà. Em và con...” . “Thì đi chứ sao. Ông à... anh khỏi lo. Tôi cũng muốn về thăm quê cô ấy một lần...”. Thắng nhìn ba mẹ và cười nhẹ. Thắm lại nhỏ nhẹ: “Con cảm ơn má!”...
“Người đi cũng đã đi rồi, anh đừng đau buồn quá như thế”, bà Nhung nói nửa như an ủi, nửa như trách chồng, nửa như tủi phận. Và bến sông hôm ấy ráng chiều lại lên thắm thiết, nồng nàn. Bà Nhung nghe tiếng ông: “Màu của bình yên, hạnh phúc sau một ngày làm lụng bên người thân! Có phải ngày xưa em muốn anh nói như thế khi hỏi về màu của ráng chiều? Anh còn nợ em câu trả lời này nữa...”.
Bà Nhung không nói gì, bà nhìn ráng chiều và lần này, bà để cho mắt mình ướt...
Trần Quỳnh Như