Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, Điều 76, khoản 1 quy định:
“Thềm lục địa của quốc gia ven biển bao gồm phần đáy biển và lòng đất dưới đáy biển bên ngoài lãnh hải của quốc gia ven biển, trên toàn bộ phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền của quốc gia đó cho đến bờ ngoài của rìa lục địa, hoặc đến cách đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải 200 hải lý, khi mép ngoài của rìa lục địa của quốc gia đó ở khoảng cách gần hơn”.
Điều 76 khoản 5, 6, 7, 8 của Công ước Luật Biển 1982 quy định rất rõ ràng: Thềm lục địa của quốc gia ven biển rộng tối thiểu 200 hải lý (kể cả khi thực tế thềm lục địa nhỏ hơn 200 hải lý). Trong trường hợp khi rìa ngoài của thềm lục địa của một quốc gia ven biển kéo dài tự nhiên vượt quá khoảng cách 200 hải lý tính từ đường cơ sở, quốc gia ven biển có thể xác định ranh giới ngoài của thềm lục địa của mình tới một khoảng cách không vượt quá 350 hải lý tính từ đường cơ sở hoặc cách đường đẳng sâu 2.500m một khoảng cách không vượt quá 100 hải lý, với điều kiện tuân thủ các quy định cụ thể về việc xác định ranh giới ngoài của thềm lục địa trong Công ước Luật Biển 1982 và phù hợp với các kiến nghị của Ủy ban Ranh giới thềm lục địa được thành lập trên cơ sở Phụ lục II của Công ước. Có nghĩa quốc gia ven biển phải trình cho Ủy ban Ranh giới thềm lục địa của Liên hợp quốc báo cáo quốc gia kèm đầy đủ bằng chứng khoa học về địa chất và địa mạo của vùng đó. Sau đó, Ủy ban Ranh giới thềm lục địa của Liên hợp quốc sẽ xem xét và ra kiến nghị.
Điều 77 của Công ước Luật Biển 1982 quy định trong thềm lục địa của mình, các quốc gia ven biển có quyền chủ quyền đối với việc thăm dò, khai thác, bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên ở thềm lục địa của mình. Cần lưu ý là quyền chủ quyền đối với thềm lục địa mang tính đặc quyền ở chỗ nếu quốc gia đó không thăm dò, khai thác thì cũng không ai có quyền khai thác tại đây nếu không được sự đồng ý của quốc gia ven biển.
Quốc gia ven biển có nghĩa vụ phải đóng thuế cho Cơ quan quyền lực đáy đại dương đối với phần lợi tức khai thác được từ thềm lục địa nằm ngoài giới hạn 200 hải lý.
Điều cần nhấn mạnh là, một mặt các quốc gia ven biển được hưởng các quyền tương ứng như đã nêu trên đối với các vùng biển của mình, nhưng mặt khác họ có nghĩa vụ tôn trọng quyền của các quốc gia ven biển khác. Khoản 2, Điều 78, Công ước Luật Biển 1982 quy định: “Quốc gia ven biển thực hiện các quyền của mình đối với thềm lục địa không được gây thiệt hại đến hàng hải hay các quyền và các tự do khác của các quốc gia khác đã được Công ước thừa nhận, cũng không được cản trở việc thực hiện các quyền này một cách không thể biện bạch được”.
Theo cuốn Hỏi - đáp về Biển đảo Việt Nam (NXB Thanh Niên)