Phát
biểu tại Hội thảo
"Định hướng hoạt động phòng chống bệnh viêm gan vi rút tại Việt Nam" ngày 18/12 do Bộ Y tế đã tổ chức,Thứ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thanh Long
khẳng định: Bệnh viêm gan vi rút là một trong 10 nguyên nhân hàng đầu gây tử
vong của các bệnh nhiễm trùng trên thế giới.
Theo
Thứ trưởng Nguyễn Thanh Long, bệnh viêm gan vi tút để lại các hậu quả nghiêm trọng là xơ gan và ung thư gan. Hiện
có 90% dân số trên thế giới sống trong khu vực có lưu hành vi rút viêm gan, tập
trung chủ yếu ở các khu vực Châu Á, Đông Âu, Trung Âu và Nam Âu, các nước khu
vực Trung và Nam Mỹ.
Tiêm phòng bệnh cho trẻ tại Bệnh viện Đại học Y Dược TPHCM. Ảnh: Phương Vy-TTXVN. |
Ước tính của Tổ chức Y tế Thế giới,
hiện có trên 2 tỷ người bị nhiễm vi rút viêm gan B, khoảng 150 triệu người
nhiễm vi rút viêm gan C. Bệnh viêm gan do vi rút viêm gan B, C gây ra 80% tổng
số các ca ung thư gan trên thế giới, hàng năm có khoảng 1 triệu người tử vong
do nhiễm vi rút viêm gan B, C.
Việt Nam là nước nằm trong khu vực lưu
hành vi rút viêm gan khá cao, đặc biệt là hai chủng vi rút viêm gan B, C.
Hội
thảo có sự tham gia của
các đại biểu, chuyên gia trong nước và quốc tế về lĩnh vực dự phòng, điều trị viêm gan. Tiến
sỹ Trần Thanh Dương, Phó Cục trưởng Cục Y tế Dự phòng, Bộ Y tế cho biết: Tại
Việt Nam, theo kết quả của một số nghiên cứu, tỷ lệ lưu hành vi rút viêm gan B
của một số địa phương khoảng 10 - 25% dân số, trong đó tỷ lệ nhiễm vi rút viêm
gan B ở người khoẻ chiếm 8-25%, tỷ lệ nhiễm vi rút viêm gan C chiếm 0,4 - 4,1%
dân số tại cộng đồng.
Bên cạnh đó, bệnh viêm gan do các vi
rút viêm gan A, D, E đang âm thầm tác động đến sức khoẻ của các nhóm dân cư
trong cộng đồng. Như vậy, bệnh do viêm gan vi rút đang thực sự là mối nguy hiểm
lớn đối với sức khoẻ cộng đồng.
Theo Tiến sĩ Đinh Quý Lan, Chủ tịch Hội gan mật Việt Nam: Triệu chứng viêm gan
vi rút thường mờ nhạt, khó phát hiện ở giai đoạn đầu và chỉ phát hiện khi bệnh
đã chuyển sang mãn tính.
Nhận thức được sự nguy hiểm của vi rút
viêm gan đối với sức khoẻ người dân, đặc biệt đối với sức khoẻ trẻ em, Chính
phủ Việt Nam với sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế đã phát động phong trào
"Toàn dân chung tay đánh gục vi rút viêm gan" cùng với nhiều chương
trình, biện pháp phòng chống viêm gan vi rút.
Từ năm 1992, Bộ Y tế đã đưa việc xét
nghiệm sàng lọc vi rút viêm gan B, C trong an toàn truyền máu; đưa vắc xin viêm
gan B vào Chương trình tiêm chủng mở rộng cho trẻ em dưới 1 tuổi (năm 1997) và
hoạt động giám sát viêm gan vi rút tại cộng đồng đã được đưa vào danh mục các
bệnh phải giám sát thường xuyên và báo cáo định kỳ; đồng thời, công tác điều
trị, tuyên truyền về phòng chống bệnh viêm gan vi rút thường xuyên được thực
hiện và cập nhật.
Công tác phòng chống bệnh viêm gan vi rút tại Việt Nam vẫn còn gặp nhiều khó
khăn, thách thức như: Hoạt động phòng chống viêm gan vi rút mới được lồng ghép
với phòng chống bệnh truyền nhiễm nói chung và kế hoạch dài hạn, đặc thù; chưa
có hướng dẫn giám sát cụ thể cũng như phân loại các chủng vi rút gây bệnh và
tình trạng mắc viêm gan vi rút thực tế tại cộng đồng.
Đặc biệt, công tác tiêm phòng vắc xin
viêm gan B chỉ tập trung chủ yếu ở trẻ em dưới 1 tuổi, việc tiêm vắc xin liều
sơ sinh trong vòng 24 giờ đạt tỷ lệ rất thấp khoảng 25%. Trong khi đó 90% số
trẻ bị lây truyền viêm gan B từ mẹ sang con trong thời kỳ chu sinh (bắt đầu từ
lúc mang thai cho đến năm đầu tiên sau khi trẻ được sinh ra); việc tiêm phòng
vắc xin viêm gan B cho các đối tượng có nguy cơ cao, nhất là đối với người
trưởng thành còn chưa được quan tâm đúng mức.
Bên cạnh đó, công tác tuyên truyền
phòng chống bệnh viêm gan vi rút mới chỉ được lồng ghép vào các hoạt động
truyền thông khác, chưa có các chiến dịch tương xứng với tác hại của bệnh viêm
gan vi rút tại cộng đồng.
Hội thảo diễn ra trong 2 ngày (18-19/12) với nhiều báo cáo tập trung vào các
vấn đề như: Công tác điều trị viêm gan vi rút tại Việt Nam, xét nghiệm sàng lọc
viêm gan vi rút và an toàn truyền máu, tình hình đồng nhiễm viêm gan vi rút
trong đối tượng nhiễm HIV, năng lực xét nghiệm viêm gan vi rút tại Việt Nam...
Thu Phương