Phối hợp đồng bộ trong công tác ngoại giao
Tại Phiên họp, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Tô Anh Dũng cho biết, với việc xem phát triển là nhiệm vụ trung tâm, Đại hội Đảng lần thứ XIII đã nhấn mạnh yêu cầu xây dựng nền kinh tế tự chủ trên cơ sở làm chủ công nghệ và chủ động, tích cực hội nhập, nâng cao khả năng thích ứng của nền kinh tế, thúc đẩy đổi mới sáng tạo. Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư cũng đặt ra yêu cầu cần tận dụng cơ hội để thúc đẩy quá trình đổi mới, mô hình tăng trưởng. Đây là định hướng lớn của Đảng về phương thức phát triển của đất nước.
Thực hiện nhiệm vụ trên, ngành Ngoại giao xem ngoại giao kinh tế phục vụ phát triển là nhiệm vụ trọng tâm. Do đó, việc xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại chắc chắn cần nắm vững những định hướng này, coi đổi mới sáng tạo, vừa là mục tiêu hướng tới, vừa là công cụ, giải pháp quan trọng; đồng thời cần xác định rõ các thách thức đặt ra đối với xây dựng, đầu tư, hiệu quả và có tính bảo mật, đào tạo nguồn nhân lực với kỹ năng mới và xây dựng các khuôn khổ thể chế mới phù hợp.
"Bộ Ngoại giao cho rằng, sự phối hợp đồng bộ, liên thông hơn nữa giữa các ban, bộ, ngành liên quan đóng vai trò quan trọng hơn bao giờ hết, trong đó sự phối hợp giữa ba trụ cột của nền ngoại giao toàn diện, hiện đại là đối ngoại Đảng, Ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân có ý nghĩa then chốt. Sự phối hợp giữa Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an có ý nghĩa trọng yếu, thường xuyên đối với duy trì môi trường an ninh cho sự phát triển của đất nước. Trong khi đó, ngoại giao công nghệ, ngoại giao môi trường, ngoại giao y tế và các ngoại giao số đã trở thành các lĩnh vực công tác mới với sự phối hợp chặt chẽ, thường xuyên hơn giữa Bộ Ngoại giao với Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Y tế và các bộ, ngành liên quan, sẽ góp phần quan trọng trong việc thu hút nguồn lực phục vụ phát triển, nâng cao vị thế và uy tín quốc tế của Việt Nam", Thứ trưởng Tô Anh Dũng khẳng định.
Theo đó, để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, Bộ Ngoại giao mong muốn tiếp tục nhận được sự phối hợp chặt chẽ, hiệu quả, đồng bộ của các bộ, ban, ngành để tiếp tục làm rõ nội hàm và cách thức triển khai hình thức ngoại giao đổi mới sáng tạo như ngoại giao công nghệ, ngoại giao môi trường, ngoại giao y tế và ngoại giao trên các lĩnh vực ưu tiên khác. Bộ Ngoại giao đề xuất tiếp tục phối hợp để thống nhất và nâng cao nhận thức về các mục tiêu, phương thức triển khai ngoại giao, đổi mới sáng tạo trên cơ sở ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ và các phương pháp tổ chức triển khai hiện đại.
Bên cạnh đó, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao đề nghị tiếp tục phối hợp nghiên cứu, đề xuất các cơ chế mới cũng như tiếp tục nâng cao hiệu quả cơ chế đã có để triển khai hiệu quả hình thức ngoại giao đổi mới sáng tạo trên tinh thần phối hợp chặt chẽ liên ngành, đa ngành.
Cùng với việc phối hợp nghiên cứu, đề xuất các khuôn khổ chính sách và pháp lý để điều chỉnh các hoạt động ngoại giao, Thứ trưởng Tô Anh Dũng đề nghị phối hợp nghiên cứu, đề xuất bố trí nguồn lực tương xứng nhằm phát huy vai trò, bảo đảm tính khả thi cho các hoạt động ngoại giao đổi mới sáng tạo cũng như phát huy sức mạnh cộng hưởng giữa các bộ, ngành.
Đồng thời, phối hợp tham mưu để kịp thời đề xuất, kiến nghị các quyết sách lên lãnh đạo Đảng, Nhà nước trong công tác đối ngoại trên tinh thần hợp tác chặt chẽ với các bộ, ngành, địa phương liên quan, Bộ Ngoại giao sẵn sàng đóng vai trò điều phối trong nền ngoại giao đổi mới sáng tạo.
Hợp tác trong ứng phó với biến đổi khí hậu
Theo Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Lê Công Thành, những năm qua, công tác ngoại giao đã có nhiều đóng góp to lớn trong nỗ lực ứng phó biến đổi khí hậu tại Việt Nam.
Đối với quốc tế, Việt Nam đã sớm phê chuẩn tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu, Nghị định thư Kyoto, tích cực tham gia đàm phán thông qua Thỏa thuận Paris, chủ động và nhanh chóng ký kết phê duyệt Thỏa thuận Paris. Các hoạt động ngoại giao, hợp tác quốc tế về ứng phó biến đổi khí hậu đã đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận.
Theo Thứ trưởng Lê Công Thành, biến đổi khí hậu hiện nay đang trở nên nghiêm trọng hơn và thực sự là thách thức lớn nhất, vấn đề khẩn cấp đối với nhân loại trên toàn cầu. Các hiện tượng thời tiết cực đoan và tình trạng nước biển dâng hằng ngày đang tác động tiêu cực đến cuộc sống của mọi người dân trên trái đất, đe dọa sự tồn vong của nhiều quốc gia và cộng đồng dân cư, đòi hỏi chúng ta phải đoàn kết và hành động mạnh mẽ trước khi quá muộn.
Trong bối cảnh đó, công tác ngoại giao khí hậu cần được đổi mới nhằm đáp ứng các yêu cầu và thách thức của tình hình. Chia sẻ một số điểm quan trọng về đổi mới sáng tạo công tác ngoại giao khí hậu, Thứ trưởng Lê Công Thành cho rằng, cần đưa biến đổi khí hậu vào trong các chương trình nghị sự, chính sách và chiến lược hợp tác tại các diễn đàn, cơ chế hợp tác song phương và đa phương, trong đó các chủ đề, nội dung ngoại giao khí hậu cần gắn liền với ngoại giao kinh tế, thúc đẩy hợp tác đầu tư vào các công nghệ xanh, năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, phát triển và sử dụng các sản phẩm xanh.
Cùng với đó, đổi mới hoạt động khí hậu theo hướng không chỉ vận động, hỗ trợ kỹ thuật, nâng cao năng lực cho các bộ, ngành, địa phương mà phải kết nối, mang đến các nhà đầu tư có công nghệ cao, công nghệ sạch vào Việt Nam, hỗ trợ Việt Nam thực hiện các mục tiêu và cam kết giảm phát thải phù hợp với xu hướng chuyển đổi từ nhiên liệu hóa thạch sang năng lượng tái tạo, vận động đầu tư nước ngoài vào những lĩnh vực mà Việt Nam có lợi thế và tiềm năng như điện gió trên bờ, năng lượng gió ngoài khơi, điện mặt trời và năng lượng sạch.
“Công tác ngoại giao khí hậu phải dự báo được từ sớm, phát hiện được từ xa các xu thế dịch chuyển, đầu tư phát triển công nghệ liên quan đến thích ứng với biến đổi khí hậu, giảm nhẹ phát thải khí nhà kính. Cần sớm có những khuyến nghị về cơ chế, chính sách để trong nước có phản ứng chính sách kịp thời theo yêu cầu mới, phù hợp luật chơi mới trên toàn cầu để giảm phát thải khí nhà kính”, Thứ trưởng Lê Công Thành nhận định.
Đề xuất với ngành ngoại giao một số giải pháp, Thứ trưởng Lê Công Thành cho rằng, cần tăng cường kết nối giữa các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài với Bộ Tài nguyên và Môi trường, các bộ, ngành liên quan để thông tin kịp thời thúc đẩy tiếp cận các nguồn lực hợp tác và đầu tư xanh.
Bên cạnh đó, ngoại giao khí hậu một mặt tiếp tục hoàn thành trách nhiệm đàm phán quốc tế để thực hiện Công ước, thỏa thuận Paris. Mặt khác, phải thúc đẩy công bằng, công lý, hỗ trợ các nhóm yếu thế trong ứng phó với biến đổi khí hậu. Đồng thời, cần tạo điều kiện, khuyến khích cán bộ Việt Nam tham gia ứng cử vào các vị trí công tác ở những tổ chức quốc tế về biến đổi khí hậu, các cơ quan của Liên hợp quốc, các định chế tài chính như Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng Phát triển châu Á để tăng cường việc tiếp nhận thông tin và thúc đẩy hợp tác ngoại giao khí hậu giữa Việt Nam và quốc tế.
Phối hợp hiệu quả trong công tác ngoại giao vaccine
Trình bày tham luận “Đổi mới sáng tạo trong ngoại giao y tế”, ông Đặng Quang Tấn, Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế, Bộ Y tế cho biết, trước tình hình dịch COVID-19 diễn biến phức tạp, vai trò tiên phong của đối ngoại đã được phát huy và thể hiện rõ qua các hoạt động “ngoại giao y tế”, "ngoại giao vaccine", tranh thủ sự hỗ trợ kịp thời, hiệu quả của quốc tế về vaccine, thiết bị y tế và thuốc điều trị, đóng góp quan trọng vào phòng, chống, thích ứng an toàn với COVID-19 và phục hồi, phát triển kinh tế- xã hội.
Với nhiều những nỗ lực từ ngoại giao vaccine, đến hết ngày 14/12/2021, Bộ Y tế đã tiếp nhận 168.865.244 liều vaccine phòng COVID-19, phân bổ 103 đợt. Thông qua việc tranh thủ sự hỗ trợ kịp thời, hiệu quả của quốc tế về vaccine, thiết bị y tế và thuốc điều trị, ngoại giao vaccine đã đóng góp quan trọng vào công tác phòng, chống dịch COVID-19 và phục hồi, phát triển kinh tế- xã hội, qua đó khẳng định rõ vai trò tiên phong của đối ngoại trong văn kiện Đại hội XIII là hoàn toàn đúng đắn.
Thời gian tới, để triển khai đường lối đối ngoại Đại hội XIII, ông Đặng Quang Tấn đề nghị, một trong những nhiệm vụ quan trọng của ngành Y tế trong hoạt động đối ngoại là tiếp tục phối hợp chặt chẽ với Bộ Ngoại giao và các bộ, ban ngành có liên quan để thực hiện công tác phòng, chống dịch; qua đó góp phần khôi phục, phát triển kinh tế - xã hội và cải thiện đời sống nhân dân, nhanh chóng đưa cả nước chuyển sang trạng thái bình thường mới. Theo đó, một số hoạt động như tiếp tục đẩy mạnh hợp tác quốc tế, tăng cường vai trò, vị thế của Việt Nam trong các tổ chức quốc tế thông qua việc đóng góp, hỗ trợ và tham gia các hoạt động; hợp tác với các tổ chức liên hợp quốc, đặc biệt Tổ chức Y tế thế giới; tranh thủ việc thiết lập, hình thành các văn phòng đại diện của các tổ chức quốc tế tại Việt Nam; thực hiện có hiệu quả ngoại giao vaccine, thuốc, trang thiết bị y tế; triển khai việc công nhận giữa các nước về hộ chiếu vaccine để mở cửa phục vụ cho phát triển kinh tế và giao lưu, đi lại của người dân giữa các nước và Việt Nam; thực hiện chính sách ưu đãi đầu tư để phát triển công nghiệp dược; tiếp cận sớm nhất vaccine, thuốc, công nghệ xét nghiệm, vật tư, trang thiết bị thế hệ mới; hình thành các khu công nghiệp dược để tham gia vào chuỗi sản xuất, cung ứng toàn cầu…
Định hình và phát triển chính sách ngoại giao khoa học-công nghệ
Theo Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Lê Xuân Định, khoa học và công nghệ được khẳng định là “quốc sách hàng đầu”, “then chốt”, “động lực”, “nền tảng” cho phát triển đất nước; giữ vai trò nòng cốt trong việc phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, tốc độ phát triển và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Nhắc lại mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ chia sẻ: “Đây là lần đầu tiên, đối ngoại, khoa học, công nghệ, và đổi mới sáng tạo xuất hiện trong cùng “một khung hình” thể hiện tầm nhìn và khát vọng của dân tộc. Điều này cho thấy tính đúng đắn về thời điểm để đối ngoại và khoa học-công nghệ cộng lực cùng phục vụ phát triển đất nước. Đây là khung khổ đầu tiên định hình nên chính sách ngoại giao khoa học-công nghệ trong thời gian tới”.
Trong bối cảnh thế giới đang thay đổi một cách nhanh chóng, đổi mới sáng tạo nổi lên như là một ngôn ngữ chung có tính toàn cầu, đi kèm với dòng lưu chuyển khổng lồ của tri thức khoa học và công nghệ đến mọi ngõ ngách của cuộc sống. Vì vậy, Thứ trưởng Lê Xuân Định nhấn mạnh, hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ cần được nhìn nhận một cách tổng thể hơn và có tính chiến lược hơn để chủ động ‘khơi dòng’ các nguồn tri thức và công nghệ tiên tiến chảy vào đất nước, góp phần nâng cao năng lực hấp thụ tri thức mới, công nghệ nhập khẩu hiện đại từ nước ngoài, đưa khoa học và công nghệ trong nước tiếp cận với quốc tế; đồng thời, ngăn chặn được công nghệ lạc hậu từ nước ngoài, bảo đảm an ninh công nghệ quốc gia và trở thành một thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng khoa học và công nghệ thế giới.
Nêu 6 xu hướng trên thế giới để khẳng định thêm sự cần thiết để sớm hình thành chính sách ngoại giao khoa học và công nghệ của Việt Nam, Thứ trưởng Lê Xuân Định cho biết, để tối đa hóa được lợi ích của quốc gia trong giai đoạn mới, Việt Nam cần xây dựng chính sách ngoại giao khoa học và công nghệ - cách tiếp cận tổng thể để khoa học và công nghệ trở thành một trụ cột mới trong chính sách đối ngoại quốc gia.
Theo Thứ trưởng Lê Xuân Định, cần đưa khoa học và công nghệ thành trụ cột trong các hiệp định, văn bản hợp tác với các nước đối tác chiến lược hay đối tác toàn diện của Việt Nam; đưa một số nội dung hợp tác khoa học và công nghệ vào trong các Hiệp định hợp tác kinh tế, khu vực thương mại tự do song phương và đa phương; ký kết các hiệp định hợp tác khoa học và công nghệ thế hệ mới, trong đó tích hợp chuyển giao, mua bán công nghệ, bảo hộ sở hữu trí tuệ, thỏa thuận công nhận lẫn nhau về tiêu chuẩn, đo lường và chất lượng hàng hóa, các cơ chế khuyến khích doanh nghiệp Việt Nam và đối tác tham gia hợp tác phát triển và chuyển giao công nghệ.
“Chúng ta phải tạo ra những cơ chế cụ thể để thu hút chất xám khoa học và công nghệ trên thế giới vào Việt Nam, đặc biệt là các nhà khoa học và công nghệ Việt Nam ở nước ngoài và thúc đẩy lưu chuyển các nhà khoa học và công nghệ trong nước ra nước ngoài. Việt Nam phải trở thành một bộ phận tích cực và có trách nhiệm trong các hoạt động khoa học và công nghệ khu vực và toàn cầu thông qua việc tham gia vào các dự án lớn của thế giới”, Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ nêu.