Tăng cường sự tin cậy chính trị
Nhật Bản và Việt Nam thiết lập quan hệ ngoại giao ngày 21/9/1973. Quan hệ giữa hai nước đang ở giai đoạn tốt nhất trong lịch sử kể từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao, có sự tin cậy cao. Chuyến thăm chính thức Việt Nam sắp tới của Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe diễn ra trong bối cảnh quan hệ Đối tác chiến lược sâu rộng Việt Nam - Nhật Bản phát triển ngày càng mạnh mẽ, toàn diện và thực chất. Các hoạt động tiếp xúc cấp cao giữa hai nước diễn ra thường xuyên như: Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc thăm Nhật Bản và dự Hội nghị Thượng đỉnh G7 mở rộng tháng 5/2016. Trong năm 2016, Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe đã bốn lần tiếp xúc với Lãnh đạo cấp cao Việt Nam như: tiếp xúc với Chủ tịch nước Trần Đại Quang và Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc bên lề các hội nghị quốc tế. Lãnh đạo cấp cao hai nước duy trì thường xuyên các chuyến thăm và tiếp xúc tại các diễn đàn quốc tế và khu vực.
Hai nước có một số cơ chế đối thoại như: Ủy ban Hợp tác Việt - Nhật do hai Bộ trưởng Ngoại giao làm đồng Chủ tịch (từ năm 2007); Đối thoại Đối tác chiến lược Việt Nam - Nhật Bản về ngoại giao - an ninh - quốc phòng cấp Thứ trưởng ngoại giao (từ năm 2010); Đối thoại chính sách quốc phòng Việt - Nhật cấp Thứ trưởng (từ tháng 11/2012); Đối thoại An ninh cấp Thứ trưởng (từ tháng 11/2013). Hai nước ủng hộ lẫn nhau tại các diễn đàn đa phương như: Liên hợp quốc, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM), Hội đồng nhân quyền... Việt Nam ủng hộ Nhật Bản vào Ủy viên không thường trực của Hội đồng bảo an Liên hợp quốc (2016-2017). Về vấn đề Biển Đông, Nhật Bản khẳng định cần đảm bảo an ninh, an toàn và tự do hàng hải, hàng không tại Biển Đông; ủng hộ quan điểm các tranh chấp tại Biển Đông cần được giải quyết một cách hòa bình, không sử dụng vũ lực, trên cơ sở luật pháp quốc tế, Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, tuân thủ Tuyên bố ứng xử giữa các bên ở Biển Đông (DOC) và sớm xây dựng Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC); phản đối các hành động đơn phương nhằm thay đổi nguyên trạng ở Biển Đông.
Đối tác kinh tế quan trọng
Nhật Bản là đối tác kinh tế quan trọng hàng đầu của Việt Nam và là nước G7 đầu tiên công nhận quy chế kinh tế thị trường của Việt Nam. Hai bên đã ký Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam-Nhật Bản (VJEPA)... tạo khuôn khổ pháp lý thuận lợi cho phát triển quan hệ kinh tế, thương mại giữa hai nước… Hiện tại, Nhật Bản đang tích cực hỗ trợ Việt Nam phát triển công nghiệp trong khuôn khổ Chiến lược công nghiệp hóa của Việt Nam trong khuôn khổ hợp tác Việt Nam - Nhật Bản đến năm 2020 tầm nhìn 2030. Năm 1999, hai nước đã dành cho nhau thuế suất tối huệ quốc. Năm 2015, Nhật Bản là đối tác thương mại lớn thứ tư của Việt Nam, kim ngạch thương mại hai chiều đạt 28,526 tỷ USD (tăng 3,3% so với năm 2014). Trong 11 tháng đầu năm 2016, kim ngạch thương mại hai nước đạt 26,8 tỷ USD, trong đó xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản đạt 13,21 tỷ USD (tăng 2,7% so với cùng kỳ 2015), nhập khẩu đạt 13,6 tỷ USD (tăng 3,3%).
Về đầu tư trực tiếp, lũy kế tính đến ngày 20/11/2016, Nhật Bản có 3.242 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài còn hiệu lực tại Việt Nam với tổng vốn đầu tư đăng ký 42,016 tỷ USD, đứng hai trong tổng số 112 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam (sau Hàn Quốc). Riêng 11 tháng đầu năm 2016, Nhật Bản có 296 dự án cấp mới, 195 dự án tăng vốn với tổng vốn đầu tư đăng ký cấp mới và tăng thêm1,95 tỷ USD, đứng thứ ba trong số các quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam. Hai bên hoàn thành báo cáo kết thúc Sáng kiến chung Việt - Nhật giai đoạn 5 và bắt đầu triển khai giai đoạn 6 từ tháng 8/2016.
Nhật Bản là nước tài trợ ODA lớn nhất cho Việt Nam, chiếm khoảng 30% tổng cam kết ODA của cộng đồng quốc tế đối với Việt Nam. Từ năm 1992 đến hết tài khóa 2015 (31/3/2016), Nhật Bản đã cam kết khoảng 29,5 tỷ USD (theo tỷ giá hiện nay) vốn vay ODA cho Việt Nam. Trong năm tài khóa 2015, Nhật Bản cam kết vốn vay ODA cho Việt Nam hơn 310,08 tỷ Yên (khoảng 2,5 tỷ USD), mức cao nhất từ trước đến nay.
Thúc đẩy hợp tác trên nhiều lĩnh vực
Trong chuyến thăm cấp Nhà nước tới Nhật Bản của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang vào năm 2004, hợp tác nông nghiệp có bước đột phá từ. Hai bên đã ký kết "Tầm nhìn trung và dài hạn trong hợp tác Nông nghiệp Việt Nam - Nhật Bản" nhân chuyến thăm chính thức Nhật Bản của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng (9/2015).
Hợp tác ứng phó biến đổi khí hậu phát triển mạnh mẽ, thực chất với việc Nhật Bản liên tục cung cấp ODA những năm gần đây cho các dự án ứng phó biến đổi khí hậu của Việt Nam. Trong chuyến thăm Nhật Bản và tham dự Hội nghị Thượng đỉnh G7 mở rộng của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, Thủ tướng Shinzo Abe đã công bố hỗ trợ khẩn cấp không hoàn lại 2,5 triệu USD để ứng phó với tình trạng hạn hán, xâm nhập mặn và cho biết Nhật Bản sẽ nghiên cứu hỗ trợ Việt Nam ứng phó biến đổi khí hậu trong trung, dài hạn.
Về hợp tác lao động, từ năm 1992 đến nay, Việt Nam đã cử nhiều tu nghiệp sinh sang Nhật Bản. Hiện có hơn 45.000 lao động, thực tập sinh Việt Nam tại Nhật Bản trong các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp. Hai bên đã ký Bản ghi nhớ về việc Nhật Bản tiếp nhận điều dưỡng viên, hộ lý của Việt Nam (đợt đầu tiên gồm 138 người, đợt hai gồm 137 người).
Quan hệ hợp tác về giáo dục và đào tạo giữa hai nước đã phát triển dưới nhiều hình thức. Nhật Bản là một trong những nước viện trợ không hoàn lại lớn nhất cho ngành giáo dục đào tạo của Việt Nam. Hai bên đã ký kết nhiều văn kiện hợp tác trong lĩnh vực này. Tính đến 4/2016 có 38.882 lưu học sinh Việt Nam đang học tập tại Nhật Bản. Nhật Bản đang hợp tác để nâng cấp 4 trường đại học của Việt Nam đạt chất lượng cao (Đại học Cần Thơ, Đại học Đà Nẵng, Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Nông nghiệp Hà Nội); hợp tác xây dựng Trường Đại học Việt - Nhật, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho Việt Nam trong lĩnh vực khoa học công nghệ, quản lý và dịch vụ. Cùng với đó, Nhật Bản đã hỗ trợ Việt Nam dạy tiếng Nhật tại một số trường phổ thông cơ sở tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh.
Năm 2016, lượng khách du lịch Nhật Bản vào Việt Nam đạt 740.592 lượt (tăng 10,3% so với năm 2014) đứng thứ 3 (sau Trung Quốc và Hàn Quốc). Khách du lịch Việt Nam vào Nhật Bản năm 2015 đạt 185.400 lượt người. 11 tháng năm 2016 đạt 220.700 lượt người (tăng 26,1%) .
Về công tác lãnh sự, thống kê của Bộ Tư pháp Nhật Bản cho biết, đến tháng 12/2015 có 124.820 người Việt Nam đang sinh sống, làm việc, học tập tại Nhật Bản và khoảng 13.500 người Nhật Bản đang sống, làm việc tại Việt Nam. Nhật Bản đã mở Tổng lãnh sự quán tại Thành phố Hồ Chí Minh. Việt Nam đã mở Tổng Lãnh sự quán tại Osaka và Fukuoka. Tháng 6/2010, hai Tổng Lãnh sự danh dự của Việt Nam tại thành phố Nagoya (tỉnh Aichi) và thành phố Kushiro (tỉnh Hokkaido) đã được bổ nhiệm. Từ ngày 1/1/2004, Việt Nam đã miễn thị thực cho người Nhật đi du lịch và kinh doanh vào Việt Nam trong vòng 15 ngày; từ ngày 1/7/2004, miễn thị thực nhập cảnh ngắn hạn cho mọi công dân mang hộ chiếu Nhật Bản. Ngày 8/3/2005, hai bên đã trao đổi Công hàm miễn thị thực nhập cảnh cho công dân hai nước Việt Nam và Nhật Bản mang Hộ chiếu ngoại giao, hộ chiếu công vụ trong thời hạn lưu trú không quá 90 ngày bắt đầu thực hiện từ 1/5/2005. Nhật Bản thực hiện nới lỏng quy chế cấp thị thực nhiều lần (từ ngày 30/9/2014 và nới lỏng hơn từ ngày 15/2/2016) và thị thực một lần (từ 20/11/2014) cho công dân Việt Nam.
Hợp tác địa phương hai nước Việt Nam - Nhật Bản được thúc đẩy mạnh mẽ. Nhiều địa phương của hai nước đã ký văn bản hợp tác như: Hồ Chí Minh - Osaka; Hồ Chí Minh -Yokohama; Đà Nẵng - Sakai; Hà Nội - Fukuoka; Đà Nẵng - Yokohama; Đồng Nai - Hyogo; Bà Rịa - Vũng Tàu - Kawasaki; Phú Thọ - Nara; Huế - Kyoto; Hưng Yên - Kanagawa; Hải Phòng - Niigata; Nam Định - Miyazaki.
Chuyến thăm chính thức Việt Nam của Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe thể hiện sự coi trọng quan hệ Đối tác chiến lược sâu rộng của hai nước; khẳng định Việt Nam coi Nhật Bản là đối tác quan trọng và lâu dài. Hai bên mong muốn tiếp tục tăng cường sự tin cậy chính trị và thúc đẩy hợp tác trên nhiều lĩnh vực, trong đó có hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư, ODA, nông nghiệp, giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực, ứng phó với biến đổi khí hậu, lao động, quốc phòng, an ninh, giao lưu địa phương.