Phát biểu tại buổi lễ, Bộ trưởng Trần Hồng Hà khẳng định: “Ngay từ khi mới thành lập, trong một thời gian ngắn trên cơ sở kế thừa và phát huy bề dày truyền thống trong những lĩnh vực như đất đai, khoáng sản, khí tượng thủy văn, Bộ đã phát huy tinh thần đoàn kết, thống nhất, nhanh chóng kiện toàn tổ chức bộ máy; củng cố, phát triển nền tảng quản lý đa ngành từ trung ương đến địa phương”.
Bộ trưởng bày tỏ, với phương châm hướng về địa phương cơ sở, người dân, doanh nghiệp, lắng nghe tiếng nói của thực tiễn, Bộ đã tập trung hoàn thiện chủ trương, chính sách, pháp luật quan trọng về tài nguyên và môi trường, chủ trì, phối hợp tham mưu ban hành Nghị quyết số 26-NQ/TW về đất đai, Luật đất đai 2003, Luật bảo vệ môi trường 2005, Luật sửa đổi một số Điều của Luật Khoáng sản, tạo lập hành lang pháp lý cho công tác quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường; tăng cường phân cấp cho địa phương; hoàn thiện các quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất, của công dân trong bảo vệ môi trường phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; cải cách một bước thủ tục hành chính, cắt giảm thủ tục cho người dân và doanh nghiệp.
Bên cạnh việc thí điểm cơ chế "một cửa", "một cửa liên thông", Bộ thường xuyên tổ chức giao lưu trực tuyến nhằm hướng dẫn, giải đáp các vướng mắc trong quá trình thực hiện các cơ chế chính sách. Việc thắt chặt kỷ cương hành chính, đổi mới lề lối làm việc tạo ra sự chuyển biến tích cực trong từng lĩnh vực được nhân dân, doanh nghiệp hoan nghênh và đánh giá cao.
“Các chủ trương, chính sách, pháp luật, quy hoạch, chiến lược được hoàn thiện, đưa tài nguyên và môi trường trở thành một ngành kinh tế quan trọng của đất nước. Trong đó, Nghị quyết số 02-NQ/TW của Bộ Chính trị về định hướng chiến lược khoáng sản và công nghiệp khai thác khoáng sản đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 và Luật Khoáng sản 2010 và các văn bản dưới luật được ban hành đã góp phần giải phóng nguồn lực tài nguyên cho phát triển. Bảo vệ môi trường được chú trọng gắn với phát triển kinh tế- xã hội; được lồng ghép vào trong các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển, các chương trình dự án. Cũng chính từ thời điểm này, mô hình phát triển bền vững đã được quan tâm, thúc đẩy, làm tiền đề cho con đường phát triển tiếp theo của đất nước”, Bộ trưởng Trần Hồng Hà cho biết.
Trong giai đoạn này, lần đầu tiên, Việt Nam có Luật Đa dạng sinh học và Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu với những quan điểm mới được tiếp thu từ quốc tế, vừa đáp ứng được tính thời sự, hội nhập, vừa đáp ứng yêu cầu thực tiễn trong nước về phát triển bền vững, sử dụng khôn khéo các hệ sinh thái; ứng phó kịp thời với tác động của biến đổi khí hậu. Qua đó, đánh dấu bước hội nhập mới của Việt Nam với quốc tế.
Về chức năng nhiệm vụ, Bộ tiếp tục được giao bổ sung chức năng quản lý nhà nước về địa chất, biến đổi khí hậu, biển và hải đảo. Khi thế giới bước vào thời kỳ tăng cường ứng phó với thách thức lớn nhất của nhân loại trong thế kỷ 21 là biến đổi khí hậu, thúc đẩy phát triển kinh tế biển xanh, phục hồi hệ sinh thái tự nhiên, nước ta cũng đẩy mạnh thực hiện quá trình chuyển dịch mô hình tăng trưởng từ “nâu” (phụ thuộc nhiều vào tài nguyên thiên nhiên, nhiên liệu hóa thạch, gây ô nhiễm môi trường, mất cân bằng sinh thái) sang “xanh” (sử dụng các nguồn tài nguyên có thể tái tạo, phát thải thấp), phát triển bền vững kinh tế biển.
Ngày 5/8/2022, tại kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khoá XI đã ban hành Nghị quyết số 02/2002/QH11, theo đó, Bộ Tài nguyên và Môi trường được thành lập trên cơ sở hợp nhất các Tổng cục: Địa chính, Khí tượng Thủy văn và các tổ chức thực hiện chức năng quản lý nhà nước về khoáng sản, tài nguyên nước, môi trường thuộc các Bộ: Công nghiệp, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Khoa học, Công nghệ và Môi trường.
Bộ trưởng Trần Hồng Hà cũng cho biết, Bộ đã tham mưu cho Đảng, Nhà nước ban hành Nghị quyết số 24-NQ/TW Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường. Đây là lần đầu tiên Đảng ta ban hành quyết sách tổng thể, toàn diện, xác lập vai trò đặc biệt quan trọng về quản lý tổng hợp các nguồn tài nguyên, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu đối với sự phát triển bền vững của đất nước.
Cùng với đó, các Nghị quyết số 19-NQ/TW Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về đất đai, Nghị quyết số 36-NQ/TW Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Nghị quyết số 10-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa XIII) về định hướng chiến lược địa chất, khoáng sản và công nghiệp khai khoáng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; các Luật tài nguyên nước 2012, Luật đất đai 2013, Luật bảo vệ môi trường 2014, Luật tài nguyên, môi trường biển và hải đảo 2015; Luật khí tượng thủy văn 2015, Luật đo đạc và bản đồ 2018… đã được ban hành, thiết lập hệ thống chủ trương, hành lang pháp lý đồng bộ để quản lý, sử dụng hiệu quả các nguồn lực tài nguyên, không gian sinh tồn và bảo vệ môi trường cho phát triển.
Đặc biệt, Luật Bảo vệ môi trường 2020 với nhiều chính sách, giải pháp đột phá, đánh dấu giai đoạn chuyển đổi mạnh mẽ trong công tác bảo vệ môi trường, hướng tới mục tiêu cao nhất là chuyển đổi mô hình tăng trưởng, bảo vệ sức khỏe người dân. Bám sát phương châm kỷ luật, kỷ cương. đổi mới, sáng tạo, hội nhập biến thách thức thành cơ hội, Bộ đã đổi mới tư duy làm chính sách chuyển từ thắt chặt quản lý bằng công cụ hành chính sang áp dụng các công cụ kinh tế, tạo lập môi trường thuận lợi, dẫn dắt và thúc đẩy doanh nghiệp và người dân thực hiện; đặc biệt, chú trọng phân tích dự báo các xu thế quốc tế trong điều kiện hội nhập, đánh giá các tác động để chính sách không chỉ giải đúng và trúng các vấn đề đặt ra từ quản lý mà còn tạo dư địa, động lực mới cho phát triển.
Môi trường và khí hậu đã trở thành một trong những trọng tâm, nội dung quan trọng trong các chương trình nghị sự của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, trong các chủ trương, quyết sách phát triển đất nước với vai trò là vừa mục tiêu vừa là động lực dẫn dắt. Tư duy bảo vệ môi trường đã chuyển bị động ứng phó, khắc phục sang chủ động phòng ngừa, kiểm soát, phục hồi môi trường, các hệ sinh thái. Các nguồn tài nguyên đã được quản lý tổng hợp, sử dụng hiệu quả, đa mục đích, đóng góp quan trọng vào ngân sách Nhà nước; lợi thế về biển được phát huy, các địa phương có biển đã trở thành trung tâm phát triển động lực. Chất lượng dự báo, cảnh báo thời tiết, thiên tai ngày càng được nâng lên cao, với đủ độ chi tiết, dần tiệm cận với trình độ của các nước phát triển. Công tác phân giới cắm mốc đã góp phần xây dựng hòa bình, ổn định khu vực biên giới.
“Chuyển đổi số được đẩy mạnh trên nền tảng tài nguyên số, dữ liệu lớn về thông tin địa lý, dữ liệu đất đai, dữ liệu viễn thám,... hướng tới phát triển kinh tế số ngành tài nguyên và môi trường. Cải cách thể chế, kiện toàn tổ chức bộ máy giảm khâu trung gian, quy trình hóa các khâu trong giải quyết thủ tục và hiện đại hóa nền hành chính được triển khai đồng bộ gắn với quản lý điều hành trên môi trường mạng”, Bộ trưởng Trần Hồng Hà cho biết.
Bộ trưởng Trần Hồng Hà cũng nêu ra những điểm nhấn trong bức tranh hội nhập của đất nước với quốc tế về môi trường và khí hậu như: Tham gia Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu tại COP21 và đưa ra cam kết đạt mức phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050, tuyên bố các nhà chính trị về sử dụng đất và lâm nghiệp, tham gia Liên minh toàn cầu về thích ứng với biến đổi khí hậu tại COP26. Tham gia 100 khuôn khổ hợp tác đa phương và có 90 đối tác hợp tác song phương về tài nguyên, môi trường và khí hậu, trong đó có nhiều khuôn khổ hợp tác, chúng ta đóng vai trò chủ động, dẫn dắt.
Bộ trưởng Trần Hồng Hà cho rằng: “Qua đó, khẳng định vị thế, mang lại cho Việt Nam những lợi ích “kép” từ cơ hội tiếp cận tri thức, công nghệ, tài chính xanh, thực hiện tái cơ cấu lại nền kinh tế cũng như chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, phục hồi hệ sinh thái tự nhiên”.
Ngoài ra, Bộ trưởng cũng nêu trong 20 năm qua, công tác đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước và cho ngành đã ghi được nhiều dấu ấn quan trọng, các trung tâm đào tạo gồm các viện, trường đại học, trường đào tạo bồi dưỡng đã hình thành và khẳng định được vị trí trong hệ thống đào tạo của đất nước.
Bộ trưởng Trần Hồng Hà cho biết: “Mặc dù, tuổi đời ˝trẻ˝ nhưng Bộ đã có nhiều đóng góp cho sự phát triển của đất nước. Tuy nhiên, Bộ trưởng cho rằng những kết quả vừa qua chỉ là khởi đầu trong tiến trình phát triển bền vững, vẫn còn nhiều khó khăn và thách thức to lớn đang đặt ra trong bối cảnh thế giới đang phải đối mặt với những khủng hoảng chưa từng có trong lịch sử: tài nguyên thiên nhiên ngày càng cạn kiệt, biến đổi khí hậu ngày càng cực đoan, hệ sinh thái ngày càng suy giảm, thậm chí có nguy cơ sụp đổ, dịch bệnh ngày càng khó kiểm soát. Đời sống kinh tế - xã hội thế giới, vì thế, cũng đang thay đổi nhanh chóng với việc hình thành “luật chơi mới” về đầu tư, thương mại cùng với xu thế không thể đảo ngược về “phát thải ròng bằng “0”, chuyển đổi xanh, chuyển đổi năng lượng từ hóa thạch sang sạch, tái tạo, bảo tồn và phục hồi hệ sinh thái.
“Hơn ai hết, chúng ta phải thống nhất về nhận thức để tạo ra những thay đổi cơ bản trong tư duy và hành động của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, đặc biệt là về mô hình phát triển phải dựa trên khả năng cung ứng của hệ sinh thái và phù hợp với các quy luật tự nhiên, chuyển từ khai thác sang đầu tư phục hồi tài nguyên tự nhiên, tăng cường khai thác, sử dụng tài nguyên có khả năng tái tạo; thúc đẩy kinh tế tri thức, kinh tế tuần hoàn...Đây là sự nghiệp của toàn dân, cần có sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị với cách tiếp cận toàn diện”, Bộ trưởng nhấn mạnh.