Trong đó, các cơ sở đào tạo được mở ra cơ hội phát triển bứt phá, trở thành các trung tâm nghiên cứu, đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp của quốc gia, các vùng; cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao, nhân tài đáp ứng yêu cầu các ngành, lĩnh vực trọng điểm.
Thí sinh thi đánh giá năng lực tại điểm thi Đại học Bách khoa, Đại học học Quốc gia TP Hồ Chí Minh Ảnh tư liệu - minh họa: TTXVN
Hiện thực hoá mục tiêu có trường đại học lọt nhóm 100 thế giới
Hiện nay, Việt Nam có hơn 240 cơ sở giáo dục đại học, trong đó chưa phải trường nào cũng tầm vóc, cũng chất lượng cao, nhưng đã có những ngành, cơ sở giáo dục đại học thuộc nhóm 500 trường tốt nhất thế giới, đào tạo hầu hết các lĩnh vực, ngành nghề mà thế giới có, đóng góp 75% các sản phẩm nghiên cứu khoa học, phát minh sáng chế của cả nước. Lực lượng các nhà khoa học tại những trường này khá đông đảo, trong đó nhiều người giỏi, có đóng góp trong nước và quốc tế.
Về xếp hạng đại học, từ những “gương mặt” đầu tiên năm 2018 là Đại học Quốc gia Hà Nội và Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, đến nay, Việt Nam đã có gần 20 cơ sở giáo dục đại học được xếp hạng tại các bảng xếp hạng uy tín quốc tế như QS World Rankings và THE (Times Higher Education) World University Rankings.
Trong bối cảnh giáo dục đại học được coi là nòng cốt phát triển nhân lực trình độ cao, thúc đẩy phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, Nghị quyết 71 đã đặt ra mục tiêu đến năm 2030, Việt Nam phấn đấu có ít nhất 8 cơ sở giáo dục đại học thuộc nhóm 200 đại học hàng đầu châu Á; ít nhất 1 cơ sở giáo dục đại học thuộc nhóm 100 đại học hàng đầu thế giới trong một số lĩnh vực. Đến năm 2045, Việt Nam có ít nhất 5 cơ sở giáo dục đại học thuộc nhóm 100 đại học hàng đầu thế giới trong một số lĩnh vực theo các bảng xếp hạng quốc tế uy tín.
Theo các chuyên gia và đại diện một số trường đại học, để khát vọng ấy trở thành hiện thực, cần một chiến lược triển khai cụ thể, đồng bộ và có giám sát chặt chẽ. Mỗi trường đại học cần xây dựng kế hoạch hành động riêng, bám sát mục tiêu quốc gia nhưng linh hoạt theo điều kiện và thế mạnh của từng đơn vị.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Hoàng Minh Sơn, Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội chia sẻ: Mô hình đại học đẳng cấp thế giới đã được thực thi tại nhiều quốc gia, có cả kinh nghiệm thành công và chưa thành công. Trong đó, ba yếu tố thành công cốt lõi bên trong một đại học đẳng cấp thế giới được nhiều chuyên gia đúc kết bao gồm nguồn lực dồi dào, quản trị thuận lợi và tài năng hội tụ. Với Việt Nam, một nền giáo dục đạt trình độ tiên tiến trong khu vực châu Á, tiến tới thuộc nhóm hàng đầu thế giới phải là nền giáo dục công bằng, bao trùm, hiện đại và chất lượng, đạt các chỉ số đối sánh quốc tế tương ứng. Nghị quyết 71 đã đưa ra 8 nhóm nhiệm vụ, giải pháp mang tính toàn diện, chiến lược và đột phá để hiện thực hóa các mục tiêu lớn này.
Giáo sư, Tiến sĩ khoa học Nguyễn Đình Đức, nguyên Chủ tịch Hội đồng trường Trường Đại học Công nghệ - Đại học Quốc gia Hà Nội cho rằng: Những năm qua, nhiều trường đại học đã “thay da đổi thịt” nhờ tự chủ đại học nhưng cũng còn một số điểm nghẽn, hạn chế kìm hãm và ràng buộc. Với xuất phát điểm về xếp hạng của các trường đại học Việt Nam như hiện nay, để đạt được mục tiêu có trường đại học xếp hạng nhóm 100 thế giới là câu chuyện không đơn giản và dễ dàng. Nhưng chính vì mục tiêu đó mà chúng ta phải đổi mới tư duy, đổi mới đầu tư, đổi mới cơ chế chính sách và đổi mới hành động, để giáo dục đại học Việt Nam cất cánh.
Theo Giáo sư, Tiến sĩ khoa học Nguyễn Đình Đức, muốn đổi mới, muốn có chất lượng và hội nhập với chuẩn mực và trình độ quốc tế, các cơ sở đào tạo phải có đủ nguồn lực và tự chủ toàn diện. Nếu tự chủ không được triển khai mạnh mẽ, nửa vời thì các trường đại học không thể cất cánh phát triển bứt phá được.
Nhấn mạnh yếu tố quan trọng nhất để nâng tầm giáo dục đại học Việt Nam, Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Đình Đức cho rằng, các cơ sở đào tạo cần quan tâm phát triển tiềm lực khoa học công nghệ, hình thành đội ngũ cán bộ giảng viên đại học giỏi giang và ưu tú, không chỉ công bố khoa học đỉnh cao, năng lực nghiên cứu xuất sắc mà còn có năng lực đổi mới sáng tạo, gắn kết thật tốt các hoạt động đào tạo và nghiên cứu với đổi mới sáng tạo, với doanh nghiệp, đồng thời phải luôn nung nấu hoài bão cống hiến và chấn hưng đất nước.
Giáo sư, Tiến sĩ Phạm Văn Điển, Hiệu trưởng Trường Đại học Lâm nghiệp bày tỏ quan điểm: Để có trường đại học lọt nhóm 100 thế giới, điều kiện tiên quyết là phải có tầm nhìn toàn cầu và mô hình vận hành theo chuẩn quốc tế. Việt Nam cần một chương trình, thậm chí một dự án quốc gia riêng để thực hiện mục tiêu, với sự dũng cảm đổi mới tận gốc từ cơ chế, tài chính đến quản trị.
“Tự chủ là con đường tất yếu để đại học phát triển bền vững. Hiện nay, mỗi trường đại học đều có chiến lược riêng để thực hiện Nghị quyết 71. Có những trường rất xuất sắc, sẽ bứt phá nhanh và tôi tin rằng, chưa đầy 10 năm nữa, Việt Nam sẽ có nhiều trường trong nhóm đầu thế giới”, Giáo sư, Tiến sĩ Phạm Văn Điển chia sẻ.
Nuôi dưỡng khát vọng cho lứa công dân toàn cầu
Thế giới đang bước vào một thời kỳ phát triển đột phá chưa từng có về công nghệ và khoa học kỹ thuật. Điều này đòi hỏi mỗi quốc gia, trong đó có Việt Nam, phải chuẩn bị kỹ lưỡng một thế hệ trẻ đáp ứng những tiêu chuẩn khắt khe về nguồn nhân lực để hội nhập và phát triển bền vững, nuôi dưỡng ý chí chinh phục tầm cao tri thức và công nghệ.
Những năm gần đây, thế hệ trẻ Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực, với những gương mặt tiêu biểu, đại diện cho bản lĩnh và khát vọng cống hiến vì Tổ quốc.
Được biết đến là một trong các nhà khoa học trẻ triển vọng của Việt Nam, Tiến sĩ Nguyễn Viết Hương, Phó Trưởng khoa Khoa học và Kỹ thuật Vật liệu, Trường Kỹ thuật Phenikaa, Đại học Phenikaa đã có hành trình 9 năm học tập và nghiên cứu tại Pháp. Sau khi bảo vệ thành công luận án tiến sĩ tại Đại học Grenoble Alpes (UGA) của Pháp năm 2019 với công trình được vinh danh “Luận án xuất sắc” của Hội Hóa học Pháp, Tiến sĩ Nguyễn Viết Hương đã quyết định quay trở về Việt Nam. Bởi, theo anh, “dù khoa học là không biên giới, nhưng những nỗ lực của mình sẽ có ý nghĩa hơn khi đặt đúng chỗ. Ở Việt Nam, nền khoa học và công nghệ chưa bằng các nước phát triển. Tuy nhiên, để thay đổi được nó thì chúng ta phải ở trong lòng nó mới thay đổi được”.
Với tâm niệm ấy, Tiến sĩ Nguyễn Viết Hương thể hiện niềm tin về trí tuệ Việt Nam có thể chinh phục những đỉnh cao khoa học, nếu đồng lòng dấn thân và không ngừng đổi mới. Chia sẻ về chặng đường 6 năm (từ 2019 đến nay) tham gia giảng dạy, nghiên cứu tại Việt Nam, Tiến sĩ Nguyễn Viết Hương cho biết: “Những năm qua, tôi cùng các đồng nghiệp và các bạn nghiên cứu sinh, học viên, sinh viên tại Đại học Phenikaa đã không ngừng nỗ lực để hiện thực hóa niềm tin đó. Chúng tôi đã miệt mài nghiên cứu, phát triển công nghệ lắng đọng đơn lớp nguyên tử (ALD) và tự tay xây dựng nên các hệ thống ALD ở áp suất khí quyển đầu tiên tại Việt Nam, mở ra các hướng đi mới cho công nghệ vật liệu tiên tiến trong nước. Đó không chỉ là kết quả chuyên môn mà còn là minh chứng cho tinh thần “dám nghĩ, dám làm, dám đổi mới” của thế hệ trí thức trẻ hôm nay”.
Ghi nhận những thành tích nổi bật, Tiến sĩ Nguyễn Viết Hương đã được trao tặng Giải thưởng Quả Cầu Vàng năm 2024, lĩnh vực Khoa học Vật liệu (do Bộ Khoa học và Công nghệ cùng Trung ương Đoàn trao tặng); danh hiệu “Gương mặt trẻ Việt Nam tiêu biểu” năm 2025.
Câu chuyện của Tiến sĩ Nguyễn Viết Hương chỉ là một trong số rất nhiều câu chuyện của những người trẻ hôm nay không ngại khó, ngại khổ, chấp nhận dấn thân, để tiếp cận các kỹ năng mới, khai mở tri thức mới, khai phóng tư duy để vươn tầm quốc tế.
Trong bài viết “Tương lai cho thế hệ vươn mình”, Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh: “Hướng tới năm 2045, dấu mốc trọng đại kỷ niệm 100 năm thành lập nước, chúng ta đặt ra mục tiêu chiến lược là phải trở thành một nước phát triển, có thu nhập cao. Để đạt được điều đó, Việt Nam cần có một thế hệ trẻ không chỉ xuất sắc về trí tuệ mà còn vượt trội về thể chất, giàu bản sắc văn hóa, đủ khả năng cạnh tranh và sánh vai với các cường quốc năm châu, khẳng định vị thế đất nước trên trường quốc tế”.
Từ đó, Tổng Bí thư Tô Lâm yêu cầu thế hệ trẻ Việt Nam ngày nay cần hơn bao giờ hết khả năng sáng tạo, tư duy phản biện và kỹ năng xử lý nhanh chóng những thay đổi về công nghệ. Thanh niên phải được đào tạo để trở thành những người tiên phong trong việc làm chủ công nghệ mới, có đủ năng lực nghiên cứu, phát triển và ứng dụng những thành tựu tiên tiến nhất vào thực tiễn. Đồng thời, thế hệ trẻ cần có tư duy toàn cầu, khả năng giao tiếp quốc tế và kỹ năng ngoại ngữ vượt trội để chủ động hội nhập vào môi trường quốc tế, cạnh tranh công bằng và hiệu quả với bạn bè thế giới.
Tại Hội nghị trực tuyến triển khai 4 nghị quyết quan trọng của Bộ Chính trị diễn ra sáng 16/9, đối với Nghị quyết 71-NQ/TW, Tổng Bí thư Tô Lâm tiếp tục nhấn mạnh giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, động lực then chốt để phát triển đất nước.
Về giải pháp thực hiện những mục tiêu của Nghị quyết 71, Tổng Bí thư nêu rõ 8 nhóm chủ đạo: Xây dựng chuẩn đầu ra quốc gia theo bậc học, nghề; triển khai kiểm định bắt buộc, bảng xếp hạng công khai gắn sứ mệnh; đổi mới chương trình và đánh giá, giảm bệnh thành tích, chống dạy thêm tràn lan, triển khai đánh giá chuẩn hóa, chú trọng kỹ năng cốt lõi; đột phá đội ngũ nhà giáo; thúc đẩy tự chủ đại học đi đôi trách nhiệm giải trình, đồng kiến tạo chương trình với doanh nghiệp, tăng cường thực tập có lương, xây dựng trung tâm đổi mới sáng tạo; nâng cấp giáo dục nghề nghiệp gắn chuỗi cung ứng, học thật-làm thật theo mô hình kép, công nhận chứng chỉ kỹ năng số, đánh giá bởi doanh nghiệp; chuyển đổi số trong giáo dục; tài chính giáo dục có mục tiêu, quan tâm hỗ trợ nhóm yếu thế bằng những giải pháp phù hợp; quốc tế hóa, công nhận tín chỉ, chương trình liên kết, thu hút chuyên gia quốc tế, nâng chuẩn ngoại ngữ theo ngành.
Với Nghị quyết 71-NQ/TW cùng tinh thần quyết liệt triển khai của toàn hệ thống chính trị, sự hưởng ứng của toàn dân mà đích đến là phát triển một nền giáo dục thực chất “học thật - nhân tài thật”, trong tương lai không xa, ngành Giáo dục Việt Nam sẽ đào tạo ra những con người có năng lực chuyên môn tốt, trình độ cao, giỏi ngoại ngữ, giỏi AI, đồng thời mang trong mình tình yêu Tổ quốc với khát vọng và hoài bão cống hiến. Đó là những thế hệ đủ năng lực làm chủ đất nước, xứng đáng là nguyên khí của quốc gia, để dân tộc Việt Nam độc lập, tự chủ và trường tồn.