Tại Hội nghị, đại biểu là trí thức, văn nghệ sỹ, nhà khoa học đã chia sẻ cảm xúc, tâm tư, nguyện vọng đối với quá trình xây dựng, phát triển văn hóa sau 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới của đất nước; đề xuất, đóng góp nhiều giải pháp cho công cuộc phát triển văn hóa, con người Việt Nam theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.
Văn hóa - Nền tảng của phát triển bền vững
Tham luận với chủ đề: “Văn hóa-Con người nhân tố bảo đảm sự phát triển bền vững của Việt Nam”, Giáo sư, Tiến sỹ khoa học Vũ Minh Giang, Chủ tịch Hội đồng Khoa học và Đào tạo (Đại học Quốc gia Hà Nội) khẳng định: Văn hóa - căn cước của một dân tộc về đại thể bao gồm hai hợp phần: Nội sinh và tiếp biến từ bên ngoài. Phần nội sinh của văn hóa thực chất là những sáng tạo của con người trong quá trình tương tác với điều kiện tự nhiên như lao động sản xuất, phù hợp với môi trường sinh thái và đã tạo nên những giá trị văn hóa truyền thống.
Văn hóa Việt Nam cũng là sản phẩm của quá trình giao lưu, tiếp biến từ Trung Hoa với truyền thống trọng chữ nghĩa, tư tưởng Phật giáo từ Ấn Độ, một số nền văn minh châu Âu. Đó chính là sức mạnh của văn hóa Việt Nam trong quá trình hội nhập.
Cũng theo Giáo sư, Tiến sỹ Khoa học Vũ Minh Giang, văn hóa truyền thống của đất nước ta thường được định danh là kinh tế nông nghiệp, cư dân nông dân, xã hội nông thôn nhưng trong thời gian đã phát triển và biến đổi. Cùng với đó, môi trường sông nước đã tạo nên một nền văn sông nước với những cư dân sống trên đó có phong cách rất linh hoạt, ứng phó giỏi với mọi tình thế.
Bên cạnh những thuận lợi, thiên nhiên Việt Nam đặt ra những thách thức cho con người như lũ lụt, bão tố, dịch bệnh. Chính trong cuộc đấu tranh vật lộn với thiên nhiên đã tạo nên truyền thống không chùn bước trước khó khăn và biết gắn kết cộng đồng, tạo nên sức mạnh để vượt qua mọi thử thách. Với vị trí địa lý nằm ở nơi giao tiếp có tầm chiến lược đặc biệt quan trọng, Việt Nam luôn bị “xô đập” bởi biến tố ở khu vực và trên thế giới. Tính cách giỏi thích ứng, nhạy cảm của người Việt phần nhiều được hình thành do tác động của những yếu tố này.
Bên cạnh đó, hoàn cảnh lịch sử luôn phải đương đầu với những kẻ thù lớn mạnh hơn mình nhiều lần đã tạo nên phẩm chất anh dũng, quật cường, mưu trí sáng tạo của người dân Việt Nam; hun đúc cho mỗi người dân Việt Nam tinh thần yêu nước nồng nàn, ý thức tự tôn dân tộc và tinh thần bất khuất, tự lập, tự cường rất cao. Đây chính là phẩm chất vô cùng quý báu của Việt Nam.
Để có thể biến văn hóa thành nguồn lực, khai thác di sản văn hóa như những tài nguyên, theo Giáo sư, Tiến sỹ Khoa học Vũ Minh Giang, giải pháp quan trọng đầu tiên phải là đổi mới tư duy nhận thức một cách cân bằng; trước hết là phải thấm nhuần sâu sắc quan điểm văn hóa không chỉ là một lĩnh vực hoạt động, phải hiểu văn hóa là một nền tảng tinh thần của xã hội, là hồn cốt, khí chất của một dân tộc.
Bên cạnh đó, cùng với việc đổi mới tư duy, nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của văn hóa cũng phải đánh giá đúng và tính hết những khó khăn khi triển khai. Trước hết, đó là những trở ngại, thói quen, tập tính hạn chế của cư dân nông nghiệp khi bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa mà một trong những điểm rất lớn gây hậu quả tai hại là việc rất ngại nói đến tầm nhìn xa, là tâm lý ăn xổi. Ngoài ra, một trong những hạn chế lớn khác của di tồn văn hóa có hại đến sự phát triển là tâm lý bình quân cào bằng. "Trong lịch sử, sự bình đẳng đôi khi tạo ra một không khí hòa thuận nhưng quan niệm dàn hàng ngang mà tiến, xấu đều hơn tốt lỏi, đôi khi chính là sự cản trở cho phát triển", Giáo sư, Tiến sỹ Khoa học Vũ Minh Giang nhận định.
Cũng theo Giáo sư, Tiến sỹ Khoa học Vũ Minh Giang, một trong những điều quyết định thành công trong sự nghiệp phát triển đất nước đi tới phồn vinh là phải khơi dậy khát vọng của dân tộc, đặc biệt là với giới trẻ như tinh thần Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XIII đã chỉ ra. Giáo dục văn hóa, lịch sử cho các tầng lớp nhân dân, nhất là tầng lớp thanh thiếu niên cần được coi như một nhiệm vụ mang tầm chiến lược.
“Khát vọng sẽ dẫn tới tự tin và có thể biến tất cả những gì mình có thành lợi thế trong quá trình cạnh tranh quốc tế. Trong thời kỳ hiện nay, văn hóa không chỉ là tài sản để chúng ta cất giữ, để chúng ta nâng niu, để chúng ta tự hào mà phải được coi là sức mạnh mềm của đất nước để có thể mở rộng hợp tác cạnh tranh sòng phẳng trên trường quốc tế", Giáo sư, Tiến sỹ Khoa học Vũ Minh Giang khẳng định.
Ông cho rằng, trên ý nghĩa này, đẩy mạnh ngoại giao văn hóa cũng không nên chỉ dừng ở mức độ giới thiệu hình ảnh Việt Nam ra bên ngoài mà phải có tính toán dài hơn, phải coi văn hóa như một “vũ khí”để tiến ra thế giới, đặc biệt coi trọng thế mạnh của gốc người Việt Nam. Ngoài ra, để phát huy sức mạnh mềm, cần làm “sống dậy” các di sản, di tích của Việt Nam theo hướng hiện đại.
Giải pháp phát triển sân khấu Việt Nam theo hướng hiện đại
Phân tích một số hạn chế, thách thức trong phát triển sân khấu Việt Nam thời gian qua và một số giải pháp thời gian tới, Nghệ sỹ Nhân dân Trịnh Thúy Mùi, Chủ tịch Hội Nghệ sỹ sân khấu Việt Nam cho biết, hiện nay, đội ngũ sáng tác văn học nghệ thuật trẻ có trình độ chuyên nghiệp, có thực tế dày dặn, có vốn sống, giỏi nghề vẫn hết sức thiếu vắng và đang bị đứt gãy về sự kế tục.
Đội ngũ chủ lực, thế hệ vàng của nền văn nghệ Việt Nam, từng được đào tạo tại các nước Đông Âu xã hội chủ nghĩa đã không còn nhiều. Đội ngũ sáng tạo nghệ thuật sân khấu hiện chủ yếu được đào tạo trong nước, rất thiếu điều kiện tiếp cận với những tinh hoa văn học thế giới, do đó, rất hiếm những tài năng xuất chúng trong đội ngũ sáng tạo như trước đây.
Ở lĩnh vực nghệ thuật sân khấu có sự thiếu hụt trầm trọng của đội ngũ tác giả, đạo diễn trẻ tài năng. Công tác lý luận, phê bình định hướng thẩm mỹ cho hoạt động văn nghệ, cho người thưởng thức văn nghệ nhưng các chuyên gia có nghề cao tuổi tác cũng cao. Những chuyên gia trẻ chỉ dừng lại ở tuyên truyền, quảng bá tác phẩm chứ chưa có nhiều công trình, bài viết lý luận phê bình, đánh giá tác phẩm phân tích chất lượng như mong đợi.
Cơ chế chính sách trong hoạt động sáng tác trên lĩnh vực văn nghệ chưa đáp ứng được yêu cầu. Nghị định 61 của Chính phủ quy định về chế độ nhuận bút văn học nghệ thuật nhưng nhiều nơi không đủ kinh phí để chi trả nhuận bút đúng như quy định này. Các đơn vị nghệ thuật địa phương phải sáp nhập vào các trung tâm văn hóa là đơn vị sự nghiệp hoạt động công tác tuyên truyền phong trào nên nghệ thuật sân khấu có nơi đang bị tha hóa, rơi vào tình trạng nghiệp dư; tính chuyên nghiệp, bản sắc nghệ thuật truyền thống đều bị phai nhạt một cách đáng tiếc.
Nghệ thuật sân khấu đang đặt ra cho những người làm nghề trách nhiệm và thách thức to lớn, đó là phải tìm cách thoát khỏi tình trạng sân khấu đang “mất trắng” khán giả, nhất là sân khấu truyền thống. Nếu không tìm cách giải quyết kịp thời thách thức này, sân khấu truyền thống sẽ có nguy cơ tụt hậu, đứng trước việc tồn vong.
Một thách thức nữa được Nghệ sỹ Nhân dân Trịnh Thúy Mùi nêu là nền văn nghệ còn xa lạ với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Cơ sở vật chất sân khấu và các đơn vị nghệ thuật đa phần cũ kỹ, lỗi thời, không còn phù hợp với thời cuộc.
Chia sẻ một số đề xuất nhằm tháo gỡ khó khăn, góp phần xây dựng và phát triển văn hóa, văn nghệ thời gian tới, Nghệ sỹ Nhân dân Trịnh Thúy Mùi cho rằng, ngành sân khấu rất cần sự quan tâm, đầu tư hơn nữa về cơ sở vật chất, về cơ chế đặc thù cho nghệ thuật biểu diễn sân khấu, đảm bảo đời sống, giảm bớt khó khăn cho văn nghệ sỹ, tạo động lực cho văn học nghệ thuật phát triển hài hòa cùng các thành phần khác
Cùng với đó, đầu tư đào tạo đội ngũ sáng tác văn học nghệ thuật bằng cơ chế đặc thù theo hướng gửi đi học tại các nước phát triển để tiếp nối thế hệ tài năng cho văn học nghệ thuật.
Đặc biệt, cần đầu tư đào tạo khán giả bởi sân khấu không thể tồn tại nếu thiếu khán giả. Đề cập giải pháp cho vấn đề này, Nghệ sỹ Nhân dân Trịnh Thúy Mùi nhắc tới Đề án xây dựng Chiến lược phát triển nghệ thuật sân khấu bằng cách giới thiệu nghệ thuật truyền thống trong trường học nhằm bảo tồn, phát huy những giá trị tinh hoa nghệ thuật truyền thống đang có nguy cơ thất truyền, đồng thời nhằm xây dựng, đào tạo thế hệ khán giả trẻ của sân khấu; cho rằng, đây là họat động hết sức cần thiết, mang tính khả thi cao, vừa trang bị kiến thức lịch sử nước nhà trong giới trẻ, vừa có tác dụng đào tạo định hướng tập trung đầu tư, hỗ trợ phát triển văn học nghệ thuật.
“Nhà nước nên đầu tư và kêu gọi đầu tư cho Quỹ Hỗ trợ phát triển văn học, nghệ thuật để đặt hàng sáng tác cho các đơn vị công lập và các đơn vị ngoài công lập, tạo sự công bằng, bình đẳng nhằm tạo điều kiện tiếp tục đẩy mạnh công tác xã hội hóa văn hóa nghệ thuật trong tiến trình phát triển văn hóa xã hội”, Nghệ sỹ Nhân dân Trịnh Thúy Mùi chia sẻ.
Cùng với đó, cần có sự đầu tư mạnh mẽ vào các tác phẩm phản ánh sinh động các vấn đề hiện đại như các tác phẩm chính luận, thế sự nhằm tạo sự đồng thuận giữa ý đảng với lòng dân, thể hiện ý nghĩa giáo dục tư tưởng của Đảng. Những tác phẩm này rất cần được Đảng và Nhà nước quan tâm, tạo điều kiện biểu diễn trong các trường Đảng, các kỳ họp Quốc hội, Hội đồng nhân dân để cán bộ, đảng viên thẩm thấu trước tiên nhằm thực hiện quyết tâm lớn của Đảng về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, để nghệ thuật, góp phần tích cực nhất vào việc phát huy giá trị văn hóa và sức mạnh con người Việt Nam, vượt qua những thách thức trong quá trình đưa đất nước phát triển và hội nhập quốc tế.