Biển Đông có tầm quan trọng chiến lược đối với các quốc gia trong và ngoài khu vực, nhưng cũng ẩn chứa nguy cơ xung đột do những tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ. Để duy trì hòa bình và an ninh trên Biển Đông, các bên liên quan cần tuân thủ luật pháp quốc tế, nhất là Hiến chương Liên hợp quốc và Công ước Luật Biển, giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, không gây cản trở các hoạt động kinh tế - thương mại trên biển và đặc biệt là không được đối xử vô nhân đạo với ngư dân...
Bài 1: Đỉnh cao của luật biển quốc tế
Với diện tích gần 3 triệu km2, Biển Đông là biển nửa kín lớn hàng đầu trên thế giới. Biển Đông có tầm quan trọng chiến lược đối với các quốc gia trong và ngoài khu vực, nhưng cũng ẩn chứa nguy cơ xung đột do những tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ và vùng biển giữa các quốc gia trong khu vực. Đối với 9 quốc gia ven biển, gồm: Trung Quốc (bao gồm cả Đài Loan) về phía Bắc, Philippines ở phía Đông, Malaysia, Singapore , Indonesia và Brunei ở phía Nam, Thái Lan, Campuchia và Việt Nam ở phía Tây, Biển Đông có giá trị to lớn về mặt kinh tế, xã hội và môi trường.
Gia tăng nhận thức về hòa bình, ổn định
Thời gian qua, tình hình Biển Đông đã có nhiều thay đổi, bao gồm những thay đổi tích cực và không tích cực. Nhận thức của cộng đồng khu vực và quốc tế về tầm quan trọng của Biển Đông đã được nâng cao, cùng với đó là sự gia tăng nhận thức về tầm quan trọng của việc gìn giữ hòa bình, ổn định ở Biển Đông. Từ một khu vực chưa được nhiều người biết đến, Biển Đông đã trở thành khu vực được quan tâm của cộng đồng khu vực và quốc tế. Vì lợi ích của mình, cũng như vì lợi ích của cả cộng đồng khu vực và quốc tế, các nước liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến Biển Đông đều tiến hành điều chỉnh chính sách, có lúc quyết đoán, có lúc táo bạo, nhưng nhìn chung đều kiềm chế, không để xảy ra xung đột.
Các cơ chế hợp tác song phương và đa phương ở khu vực bắt đầu phát huy tác dụng trong việc kiềm chế xung đột, xử lý các vấn đề nảy sinh. Theo đó, thay vì đối đầu, tập quán văn hóa hợp tác giữa các bên liên quan đã được củng cố thêm một bước. Các nước ASEAN đã có nhiều nỗ lực triển khai Tuyên bố về ứng xử của các bên trên Biển Đông (DOC), cùng hướng tới xây dựng Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) với mức độ cam kết chính trị cao, với những cơ chế kiểm soát tranh chấp, ngăn ngừa xung đột hiệu quả.
Tuy nhiên, liên quan đến Biển Đông vẫn còn nhiều thách thức cần giải quyết. Hiện nay, vẫn còn một số bên liên quan đến tranh chấp quan niệm và theo đuổi các lợi ích trước mắt của mình ở Biển Đông mà chưa tính đến đầy đủ lợi ích lâu dài của chính mình và chưa tính đến đầy đủ lợi ích của các nước trong khu vực và lợi ích chung của cộng đồng quốc tế. Vẫn còn sự tồn tại khác nhau về cách diễn giải và áp dụng luật quốc tế, nhất là Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (Công ước Luật Biển) đối với các vùng biển có chồng lấn yêu sách ở Biển Đông, đối với quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan.
Vẫn còn những hành động như việc Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương - 981, vi phạm luật pháp quốc tế và luật pháp Việt Nam; vi phạm quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam; vi phạm Hiến chương Liên hợp quốc, gây lo ngại đến an ninh khu vực.
Trước sự việc trên, Trung Quốc cần phải nghiêm túc xem xét lại trách nhiệm và các hành động của mình trong việc duy trì hòa bình và an ninh trên Biển Đông, góp phần xây dựng châu Á - Thái Bình Dương thành một khu vực hòa bình và phát triển thịnh vượng.
Cần tôn trọng Hiến chương Liên hợp quốc và Công ước Luật Biển
Đây là vấn đề có tính nguyên tắc trong duy trì hòa bình và an ninh trên thế giới nói chung và trên Biển Đông nói riêng. Hiến chương Liên hợp quốc là điều ước quốc tế phổ cập có vai trò quan trọng nhất, đặt cơ sở nền tảng cho toàn bộ hệ thống luật quốc tế nói chung, cho việc giữ gìn hòa bình và an ninh quốc tế nói riêng. Mục đích và tôn chỉ của Liên hợp quốc là duy trì hòa bình và an ninh thế giới. Đây là vấn đề xuyên suốt của Hiến chương Liên hợp quốc, cũng như thể hiện rõ ràng trong các hoạt động của Hội đồng Bảo an và Tổng thư ký Liên hợp quốc.
Trong duy trì hòa bình và an ninh, giải quyết các tranh chấp, các quốc gia phải tuyệt đối tôn trọng Hiến chương Liên hợp quốc nhằm gìn giữ hòa bình và an ninh quốc tế; phát triển quan hệ hữu nghị giữa các nước trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc bình đẳng, dân tộc tự quyết; tăng cường hợp tác quốc tế trong việc giải quyết các vấn đề kinh tế, chính trị - an ninh, văn hóa - xã hội, nhân đạo... Khoản 4, Điều 2, Chương I, Hiến chương Liên hợp quốc quy định: “Tất cả các thành viên từ bỏ việc đe dọa hoặc sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế nhằm chống lại sự toàn vẹn lãnh thổ hay nền độc lập chính trị của bất kỳ quốc gia nào, hoặc bằng cách khác trái với những mục đích của Liên hợp quốc”.
Việc Trung Quốc sử dụng các phương tiện quân sự như: Tàu chiến, máy bay hộ tống giàn khoan Hải Dương - 981; dùng các tàu hải cảnh, kiểm ngư, tàu cá bọc sắt chủ động đâm va, dùng vòi rồng cản phá các tàu cảnh sát biển, kiểm ngư đang làm nhiệm vụ của Việt Nam, tàu cá của ngư dân đang hoạt động trong vùng biển đặc quyền kinh tế của Việt Nam là hành động sử dụng vũ lực. Những hành động này của Trung Quốc đã vi phạm nghiêm trọng Hiến chương Liên hợp quốc mà Trung Quốc là một thành viên.
Công ước Luật Biển được coi là đỉnh cao của luật biển quốc tế, là văn kiện có tính tổng hợp, bao quát tất cả các vấn đề quan trọng nhất về chế độ pháp lý của biển và đại dương, đáp ứng lợi ích của các nước ven biển cũng như bảo đảm mọi công bằng đối với các nước thành viên Liên hợp quốc. Việc thông qua Công ước Luật Biển là một thành công và là bước tiến cực kỳ quan trọng trong việc thiết lập trật tự trên biển. Công ước Luật Biển được coi là hiến pháp của thế giới về các vấn đề biển và đại dương, xác định một cách toàn diện quy chế pháp lý của các vùng biển thuộc chủ quyền và quyền chủ quyền của các quốc gia ven biển cũng như quy chế pháp lý của vùng biển quốc tế và đáy biển quốc tế.
Đồng thời Công ước Luật Biển cũng quy định thành lập một số cơ chế quốc tế quan trọng liên quan đến hoạt động ở biển và đại dương như: Tòa án quốc tế về Luật Biển (ITLOS), Cơ quan quyền lực quốc tế về đáy đại dương (ISA), Ủy ban ranh giới thềm lục địa (CLCS) và Hội nghị các quốc gia thành viên công ước (SPLOS). Đặc biệt liên quan đến các tranh chấp có thể nảy sinh giữa các thành viên, Công ước Luật Biển đòi hỏi các quốc gia thành viên giải quyết mọi tranh chấp liên quan đến việc giải thích hoặc áp dụng Công ước bằng các biện pháp hòa bình theo đúng quy định của Hiến chương Liên hợp quốc, đồng thời nêu rõ các cơ chế giải quyết tranh chấp mang tính triệt để.
Là một thành viên ký Công ước Luật Biển, nên Trung Quốc phải có trách nhiệm thực hiện đầy đủ Công ước, cần có thiện chí, sự sẵn sàng hợp tác và sự nhượng bộ trong giải quyết các tranh chấp, bất đồng. Trong quan hệ với ASEAN, ngoài việc tuân thủ nghiêm Công ước Luật Biển, Trung Quốc cần phải thực hiện đầy đủ Tuyên bố về ứng xử của các bên trên Biển Đông (DOC), Quy tắc hướng dẫn thực thi DOC mà Trung Quốc là một bên đối tác, tiến tới xây dựng COC giữa ASEAN và Trung Quốc.
Đại tá, Thạc sỹVũ Khanh, chuyên gia nghiên cứu quốc tế
Bài 2: Giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình