Theo đó, hệ thống mới này sử dụng một thiết bị kết hợp một camera hồng ngoại và một máy chiếu, nhờ đó các hình ảnh được chiếu lên một phần cơ thể tương ứng. Với các máy ảnh và máy chiếu hoạt động kết hợp với nhau, tình trạng gan vẫn có thể được theo dõi một cách chính xác và được chiếu sáng ngay cả khi nó di chuyển vị trí trong suốt quá trình phẫu thuật. Bằng cách trực tiếp chỉ ra các vùng gan bị bệnh, công nghệ mới dự kiến cho phép phẫu thuật an toàn và chính xác hơn. Các nhà sáng chế cũng hi vọng một ngày nào đó kỹ thuật mới này sẽ được sử dụng trong các phẫu thuật điều trị ung thư vú và ung thư phổi.
Cho đến nay, cắt bỏ gan vẫn được tiến hành bằng cách tiêm thuốc nhuộm huỳnh quang phát ra ánh sáng dưới tia hồng ngoại vào khu vực bình thường của gan. Một camera hồng ngoại được sử dụng để chụp ảnh của gan, sau đó hình ảnh được chiếu lên một màn hình. Phương pháp này đòi hỏi phẫu thuật viên phải liên tục quan sát giữa gan và màn hình do vậy ảnh hưởng không nhỏ đến sự an toàn của bệnh nhân trong quá trình phẫu thuật.
Cắt bỏ gan yêu cầu phải kiểm soát chặt chẽ sự mất máu cũng như hoạt động của các chức năng gan, do đó loại hình phẫu thuật này được coi là phức tạp nhất. Theo tạp chí Y học chuyên khoa phẫu thuật dạ dày-ruột Nhật Bản, tỷ lệ tử vong sau phẫu thuật cắt gan là 1,9% trong 30 ngày đầu tiên, và 3,8% trong 90 ngày đầu tiên. Vì vậy nhu cầu về một phương pháp phẫu thuật an toàn hơn đang ngày càng trở nên cấp bách.
Theo một số quan chức Bệnh viện Đại học Kyoto, hiện một viện nghiên cứu nằm ở quận Sakyo thuộc thành phố Kyoto, đã sử dụng công nghệ mới này theo một dự án cho khoảng 30 trường hợp ung thư gan và đang cân nhắc kế hoạch thực hiện khoảng 30 ca phẫu thuật trong năm tới. Tuy nhiên, theo các nhà sáng chế Nhật Bản, trước khi các công nghệ phẫu thuật ung thư gan mới này được đưa vào sử dụng rộng rãi, họ cần hoàn thiện và cải tiến chúng tối ưu hơn, đặc biệt là cải thiện khả năng theo dõi các tia ánh sáng của thiết bị.
Phát triển hệ thống kỹ thuật mới này nằm trong một dự án hợp tác giữa Trường Đại học Kyoto và Tập đoàn Panasonic. Kết quả của các nghiên cứu này đã bắt đầu được ứng dụng trên lâm sàng từ năm 9/2014. Theo chiến lược của dự án, loại hình công nghệ mới này dự kiến được tung ra thị trường vào đầu năm 2018.