Đại sứ Việt Nam tại Israel Lý Đức Trung làm việc với lãnh đạo công ty TytoCare. Ảnh: Thanh Bình/TTXVN
Trong buổi tiếp Bộ trưởng Lao động và Phúc lợi Israel Rabbi Yoav Ben Tzur hồi tháng 5/2025, Thủ tướng Phạm Minh Chính đánh giá khoa học công nghệ và lao động là hai lĩnh vực quan trọng mà hai nước có thể bổ sung cho nhau; đề nghị Israel hợp tác, hỗ trợ Việt Nam về khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, khởi nghiệp, Việt Nam hỗ trợ, bổ sung cho Israel về nguồn nhân lực.
Israel không có thị trường nội địa lớn do quy mô dân số nhỏ và quan hệ ngoại giao hạn chế với nhiều nước láng giềng. Chính vì vậy, các doanh nghiệp khởi nghiệp (startup) Israel buộc phải hướng ra thị trường toàn cầu ngay từ khi mới hình thành. Theo nhiều chuyên gia, tư duy quốc tế hóa từ sớm chính là yếu tố cốt lõi giúp các startup Israel phát triển những công nghệ có tính ứng dụng toàn cầu, đồng thời điều chỉnh chiến lược tiếp cận thị trường một cách linh hoạt, phù hợp với nhu cầu quốc tế. Việc mở rộng ra thị trường quốc tế không chỉ là cơ hội, mà còn là đòi hỏi để các sản phẩm đổi mới sáng tạo đạt quy mô và hiệu quả tối ưu.
Một yếu tố quan trọng khác trong thành công của Israel là mối liên kết chặt chẽ giữa các startup và các tập đoàn công nghệ đa quốc gia. Những “ông lớn” như Nvidia, Google, Microsoft, Intel, Apple, Amazon, Meta, IBM, Cisco, Oracle… đều có mặt tại Israel với các trung tâm nghiên cứu và phát triển (R&D) quy mô lớn. Các tập đoàn này cần tinh thần sáng tạo, linh hoạt từ giới khởi nghiệp để duy trì vị thế dẫn đầu công nghệ, trong khi startup lại cần cơ hội tiếp cận thị trường, hợp tác kỹ thuật và môi trường thử nghiệm mà chỉ các doanh nghiệp toàn cầu mới có thể cung cấp.
Mối quan hệ cộng sinh này là một đặc trưng nổi bật trong hệ sinh thái đổi mới sáng tạo của Israel, điều mà các nước khác có thể có thể cân nhắc phát triển sâu hơn trong thời gian tới, đặc biệt thông qua các chính sách thu hút đầu tư FDI vào lĩnh vực công nghệ cao.
Thành công của Israel không chỉ đến từ tinh thần khởi nghiệp của cá nhân, mà là kết quả của một chiến lược quốc gia được hoạch định kỹ lưỡng từ cuối những năm 1970. Chính phủ Israel hiện đầu tư hơn 6% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hằng năm cho R&D - tỷ lệ cao nhất thế giới - và không ngừng triển khai các chương trình hỗ trợ khởi nghiệp, tiêu biểu như sáng kiến “Yozma” của Văn phòng Nhà khoa học trưởng thuộc Bộ Kinh tế Israel. Chương trình này cung cấp nguồn vốn mồi để giảm thiểu rủi ro cho startup công nghệ giai đoạn đầu, đồng thời thu hút đầu tư mạo hiểm từ quốc tế.
Mô hình hợp tác công - tư độc đáo đã trở thành nền tảng thúc đẩy hệ sinh thái đổi mới sáng tạo tại Israel phát triển mạnh mẽ, tạo ra môi trường lý tưởng để các startup nở rộ và nhanh chóng vươn ra thế giới.
Dù điều kiện phát triển khác biệt, bài học từ Israel cho thấy tầm quan trọng của một chiến lược quốc gia nhất quán, có chiều sâu, được hỗ trợ bởi các chính sách cụ thể và môi trường thể chế thuận lợi. Kết hợp hiệu quả giữa khu vực công và tư, tăng cường đầu tư cho R&D, và thúc đẩy liên kết với các tập đoàn công nghệ toàn cầu để tạo ra một hệ sinh thái đổi mới sáng tạo bền vững là những "bí quyết" giúp Israel có được vị thế như ngày nay.
Cựu Thủ tướng Israel Ehud Barak trả lời trực tuyến phóng viên TTXVN. Ảnh: TTXVN
Trao đổi với phóng viên TTXVN tại Israel, cựu Thủ tướng Israel Ehud Barak cho rằng Việt Nam còn tiến nhanh hơn nữa trong lĩnh vực công nghệ cao. Ông đánh giá cao cách Chính phủ Việt Nam tạo điều kiện cho doanh nghiệp nhỏ phát triển, từ đó thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp mạnh mẽ trong người dân. Nguyên lãnh đạo Israel nhấn mạnh: "Quan hệ hợp tác giữa Israel và Việt Nam được thúc đẩy bởi sự khâm phục lẫn nhau và niềm tin vào tiềm năng tương lai... Tôi tin rằng, đặc biệt trong lĩnh vực đổi mới sáng tạo, hợp tác song phương còn rất nhiều dư địa phát triển - miễn là có thêm chính sách hỗ trợ và tạo điều kiện từ chính phủ để hỗ trợ giới trẻ khởi nghiệp".
Ông Eyal Buvilski, Chủ tịch Hội Hữu nghị Israel - Việt Nam, nguyên Phó Đại sứ Israel tại Việt Nam cho biết Israel có rất nhiều công nghệ, tri thức và nghiên cứu khoa học. Trong khi đó, Việt Nam có tiềm năng rất lớn - Việt Nam biết cách sản xuất và làm được những điều mà Israel không thể, ví dụ như mở rộng quy mô sản xuất.
Theo ông Buvilski, hợp tác giữa các viện nghiên cứu, giữa chính phủ, giữa các doanh nghiệp tư nhân Israel và các đối tác Việt Nam - tất cả đều rất quan trọng. Ông nhận định Việt Nam vẫn chưa khai thác hết tiềm năng kinh tế của mình. Còn rất nhiều nơi mà Việt Nam có thể xuất khẩu sản phẩm đến. Ông nêu rõ: "Tôi nghĩ nếu kết hợp kiến thức từ Israel với khả năng, tầm nhìn và năng lực của khu vực kinh tế Việt Nam, chúng ta có thể tiến xa hơn rất nhiều".
Cựu Bộ trưởng Tư pháp Israel Yossi Beilin đánh giá sau nhiều năm phát triển công nghệ và hiện đại hóa, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu, thậm chí trong một số lĩnh vực công nghệ còn vượt cả những nước từng đi trước. Một phần lý do là vì người Việt Nam là những con người tốt, biết làm việc và không lười biếng. Một yếu tố khác là Việt Nam đi sau, nên có lợi thế của người đến sau trong lĩnh vực công nghệ, chưa nói đến AI và nhiều lĩnh vực khác đang được ứng dụng mạnh mẽ ở Việt Nam — những điều 50 năm trước không ai nghĩ đến.
Theo ông Beilin, sự chuyển mình mạnh mẽ về công nghệ của Israel là minh chứng rõ ràng cho vai trò trung tâm của nhà nước trong việc kiến tạo môi trường đổi mới. Việt Nam có đầy đủ nền tảng để bước vào hành trình tương tự, nếu biết tận dụng trí tuệ trong nước, học hỏi mô hình phù hợp và tạo cơ chế kích thích doanh nghiệp, viện nghiên cứu cùng sáng tạo. Một “phép màu công nghệ Việt Nam” là hoàn toàn khả thi - nếu được hỗ trợ bằng những chính sách bài bản, dài hạn và quyết liệt từ hôm nay.