Lũy kế xuất khẩu chè 7 tháng qua ước đạt 67.000 tấn tương đương 109 triệu USD, giảm 12,9% về lượng so với cùng kỳ năm 2017.
Giá chè xuất khẩu bình quân 7 tháng qua ước đạt 1.627 USD/tấn, tăng 3,8% so với cùng kỳ năm 2017.
Nguyên nhân khiến lượng chè xuất khẩu các tháng qua vẫn trong xu hướng giảm so với cùng kỳ năm 2017 là do sự suy giảm liên tục tại các thị trường chính, mặc dù tại một số thị trường khác có tăng trưởng nhưng không đủ bù đắp.
Cụ thể, trong 6 tháng đầu năm 2018, xuất khẩu chè sang Nga, thị trường lớn thứ 2 của xuất khẩu chè Việt Nam – chiếm 13% thị phần, giảm đến 1.230 tấn (tương đương 14,3%), Tiểu Vương Quốc Ả Rập Thống Nhất giảm 1.190 tấn (tương đương 57,0%) và Indonesia giảm 427 tấn (tương đương 8,7%) so với cùng kỳ năm 2017.
Các thị trường xuất khẩu chính của chè Việt Nam trong 6 tháng đầu năm 2018 là Pakistan (với 29,9 triệu USD, chiếm 32,8%), Đài Loan (Trung Quốc) (với 12,6 triệu USD, chiếm 13,8%), Nga (với 11,1 triệu USD, chiếm 12,1%), Trung Quốc (với 7,2 triệu USD, chiếm 7,9%), Indonesia (với 4,4 triệu USD, chiếm 4,8%) và Mỹ (với 3,8 triệu USD, chiếm 4,1%).
Điểm nhấn của xuất khẩu chè trong tháng 6/2018 là sự khởi sắc trở lại của thị trường Pakistan, thị trường nhập khẩu chè lớn nhất của Việt Nam.
Lượng xuất khẩu chè sang Pakistan tháng 6/2018 tăng tới 62,6% so với tháng 5/2018 và tăng 62,5% so với tháng 6/2017. Do đó, lũy kế xuất khẩu 6 tháng đầu năm 2018 sang thị trường Pakistan tăng đến 1.300 tấn (tương đương 10,9%) so với cùng kỳ năm 2017.
Các thị trường có mức tăng trưởng mạnh tiếp theo trong 6 tháng đầu năm 2018 là Đài Loan (Trung Quốc) tăng 510 tấn (tương đương 6,7%), Mỹ tăng 429 tấn (tương đương 14,9%), Trung Quốc tăng 412 tấn (tương đương 7,9%) và Malaysia tăng 350 tấn (tương đương 21,0%) so với cùng kỳ năm 2017.
Đáng chú ý nhất là sự tăng trưởng mạnh tại thị trường mới nổi Philippines. Tổng xuất khẩu chè sang Philippines trong 6 tháng đầu năm 2018 tăng đến 8,4 lần về lượng và 21,7 lần về giá trị, mặc dù Philippines không nằm trong top 10 thị trường chính của chè Việt Nam và xuất khẩu chè sang thị trường này chỉ đạt 376 tấn và 979.000 USD trong 6 tháng đầu năm 2018.
Cũng theo Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản, tại thị trường trong nước, giá chè tháng 7/2018 tiếp tục giữ ở mức ổn định 105.000 đồng/kg đối với chè xanh búp khô và 200.000 đồng/kg chè cành chất lượng cao tại Thái Nguyên; tại Lâm Đồng chè nguyên liệu (búp tươi) sản xuất chè xanh loại 1 có giá 9.000 đồng/kg, còn đối với chè nguyên liệu sản xuất chè đen có giá 6.000 đồng/kg.
Giá chè trong nước được dự báo sẽ tiếp tục giữ ở mức ổn định như hiện tại trong các tháng cuối năm 2018, do chưa có dấu hiệu nào cho thấy giá sẽ biến động mạnh.
Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản cho rằng, để thúc đẩy sự phát triển của ngành chè, bên cạnh việc nâng cao chất lượng chè thì cần có biện pháp khuyến khích tăng tiêu dùng chè trong nước, đặc biệt là trong bối cảnh lượng xuất khẩu đang có xu hướng giảm như hiện nay. Đồng thời, cũng cần đa dạng hóa các sản phẩm vào các phân khúc như chè hữu cơ, chè đặc sản để nâng cao giá trị gia tăng cho chè...