Tuy nhiên, hai ngân hàng nói trên lao đao vì những lý do rất khác nhau và các cơ quan quản lý đã nhanh chóng can thiệp để củng cố niềm tin, khiến hầu hết các chuyên gia - ngay cả những người bi quan nhất - đều tin rằng tình hình của các ngân hàng nói chung có thể sẽ được kiểm soát, ít nhất là vào lúc này.
Theo phóng viên TTXVN tại Sydney, Michael Every, chiến lược gia toàn cầu của Rabobank, cho rằng sẽ không có bất kỳ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu nào sắp tái diễn. Ông nói kịch bản khủng hoảng năm 2008 sẽ không lặp lại vì một lý do rất rõ ràng đó là các ngân hàng nhìn chung có vốn đầu tư tốt hơn nhiều và chất lượng tín dụng không có vấn đề gì. Betsey Stevenson - Giáo sư kinh tế của Đại học Michigan, từng là cố vấn của cựu Tổng thống Mỹ Barack Obama - cũng đồng tình với quan điểm của ông Every, cho biết không coi đây là cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2.0 và không nhận thấy khả năng thanh toán của hệ thống có vấn đề gì.
Theo Tiến sỹ Stevenson, có khả năng các vấn đề tài chính tại SVB không tệ như lo ngại ban đầu. Bà giải thích rằng: "Có thể họ không hoàn toàn mất khả năng thanh toán, về bản chất, chỉ là khả năng thanh khoản kém do SVB nắm giữ một lượng lớn trái phiếu Chính phủ Mỹ dài hạn. Trái phiếu này đã giảm giá trị khi lãi suất bắt đầu tăng vào năm ngoái. Khi người gửi tiền yêu cầu rút tiền, SVB buộc phải bán nhiều trái phiếu trong số này với mức lỗ nặng, làm dấy lên lo ngại rằng ngân hàng sẽ không có đủ tài sản để trả hết các khoản nợ, nhất là khi mọi người đổ xô rút tiền."
Còn đối với Credit Suisse, rắc rối bắt đầu khi họ thừa nhận những thiếu sót trong kiểm soát tài chính hôm 14/3, sau đó là cổ đông lớn từ Saudi Arabia thông báo không đầu tư thêm tiền do giới hạn quy định. Andrew Kenningham, Trưởng bộ phận kinh tế châu Âu của Capital Economics, cho biết tin xấu của Credit Suisse được đưa ra vào thời điểm không thích hợp, đó là sau sự sụp đổ đột ngột của SVB. Ông nói: "Có một sự ‘lây lan’ - không phải vì họ có bất kỳ mối liên hệ nào với Credit Suisse, mà vì tâm lý nhà đầu tư đã thay đổi và mọi người đang xem xét kỹ lưỡng các ngân hàng khác, và Credit Suisse được coi là mắt xích yếu nhất".
Ngân hàng Quốc gia Thụy Sĩ đã nhanh chóng can thiệp để cung cấp khoản tài trợ lên tới 50 tỷ franc Thụy Sĩ (54 tỷ USD) cho Credit Suisse. SVB cũng nhanh chóng được các cơ quan quản lý Mỹ "chống lưng" với những lời hứa sẽ đảm bảo an toàn cho tất cả các khoản tiền gửi trên giới hạn 250.000 USD của Tổng Công ty Bảo hiểm tiền gửi liên bang.
Trong khi đó, theo phóng viên TTXVN tại London, báo The Economist (Anh) chỉ ra rằng lãi suất tăng đã khiến các ngân hàng bị ảnh hưởng và đây là lúc để "sửa chữa" hệ thống tài chính ngân hàng thêm một lần nữa, sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2007-2009.
Theo tờ báo Anh, sự sụp đổ với tốc độ chóng mặt của SVB đã làm sáng tỏ những rủi ro chưa được đánh giá đúng mức trong hệ thống. Khi lãi suất thấp và giá tài sản cao, ngân hàng ở bang California này đã mua trái phiếu dài hạn. Sau đó, Ngân hàng Dự trữ liên bang Mỹ (FED) tăng lãi suất với tốc độ nhanh nhất trong 4 thập kỷ, giá trái phiếu lao dốc và ngân hàng bị lỗ nặng. Các quy định về vốn của Mỹ không yêu cầu hầu hết các ngân hàng tính đến việc giảm giá trái phiếu mà họ dự định nắm giữ cho đến khi đáo hạn. Chỉ những ngân hàng rất lớn mới phải đánh dấu để đưa ra thị trường tất cả các trái phiếu có sẵn để giao dịch của họ. Tuy nhiên, qua trường hợp của SVB có thể thấy nếu một ngân hàng chao đảo và phải bán trái phiếu, thì những khoản lỗ không được ghi nhận sẽ trở thành hiện thực.
Trên toàn hệ thống ngân hàng của Mỹ, những khoản lỗ không được công nhận này là rất lớn: 620 tỷ USD vào cuối năm 2022, tương đương với khoảng 1/3 tổng số vốn đệm của các ngân hàng Mỹ. May mắn là các ngân hàng khác cách xa bờ vực hơn nhiều so với SVB. Tuy nhiên, lãi suất tăng đã khiến hệ thống trở nên dễ bị tổn thương hơn. Theo bài báo, các cơ quan quản lý phải dành toàn bộ năm 2024 để nghiên cứu và triển khác các biện pháp giúp cho hệ thống ngân hàng an toàn hơn. Các cơ quan quản lý cũng phải xây dựng một cơ chế có tính đến những rủi ro từ việc tăng lãi suất, có thể bổ sung các yêu cầu về vốn đệm và xây dựng các quy tắc để đảm bảo an toàn cho ngành ngân hàng.