Nhiều dự án chậm trễ
Theo chia sẻ của các chuyên gia tại hội thảo, vấn đề tồn tại của quy hoạch điện trước đây là việc có nhiều dự án chậm tiến độ, không thể đưa vào cung ứng điện, khiến cho việc đảm bảo an ninh năng lượng xuất hiện nhiều vấn đề.
Theo Ths. Nguyễn Anh Tuấn, đại diện Hiệp hội Năng lượng Việt Nam, vấn đề chậm tiến độ của các dự án điện trong nhiều năm là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến khó khăn trong cung cấp điện thời gian qua, thậm chí có những dự án chậm hàng chục năm.
Cụ thể, Ths. Nguyễn Anh Tuấn cho biết, với điện khí, tổng công suất nguồn tua-bin khí đã được Quy hoạch điện VII hiệu chỉnh đưa vào vận hành trong giai đoạn 2016 - 2030 là 26.640 MW, tương ứng 20 dự án. Tuy nhiên, hầu hết các dự án quan trọng chậm tiến độ, như chuỗi khí-điện Lô B Ô Môn (3.750 MW) mới có Ô Môn I vào từ năm 2009, dự kiến đưa tuabin khí Ô Môn III vào từ năm 2012, sau Quy hoạch điện VII điều chỉnh lùi đến năm 2020. Dự án này đến nay chưa giải quyết xong thủ tục vay vốn ODA từ Nhật Bản.
Hay với điện than, ông Tuấn chỉ ra có 37 dự án nhiệt điện than với tổng công suất 35.112 MW đã phê duyệt trong Quy hoạch điện VII hiệu chỉnh dự kiến vận hành trong giai đoạn 2016 - 2030. Trong đó, kiểm lại cho thấy có hàng chục dự án chậm tiến độ, như Nhiệt điện Sông Hậu I, Thái Bình II, Long Phú I, Na Dương II, An Khánh Bắc Giang, Quảng Trạch I, Nam Định I BOT…
Với điện mặt trời, vừa qua, do các dự án phát triển quá “nóng” để kịp hưởng cơ chế giá ưu đãi đã gây nghẽn mạch nhiều đường dây truyền tải, phải cắt giảm năng lượng, cùng một số dự án sai phạm do chưa hoàn thành đủ các thủ tục đầu tư xây dựng… Nhiều dự án điện mặt trời đã được bổ sung trong điều chỉnh Quy hoạch và chưa triển khai xây dựng, nhưng Chính phủ đã dừng lại để rà soát. Vì vậy, từ nay đến năm 2030 sẽ chưa có thêm các nguồn điện mặt trời tập trung được đưa vào.
Kiểm điểm giai đoạn trên 10 năm phát triển nguồn điện vừa qua, có thể thấy các dự án điện chậm tiến độ do khó khăn trong huy động nguồn vốn, vướng mắc trong quy định pháp luật, cùng đó là sự chỉ đạo, điều hành từ các bộ ngành cũng chưa quyết liệt, chưa sử dụng triệt để quyền lực nhà nước để thúc đẩy các dự án bị vướng mắc, chậm trễ, đại diện Hiệp hội Năng lượng nêu.
Rõ ràng lộ trình và giám sát nghiêm
Trao đổi tại hội thảo, GS. Lê Chí Hiệp, Trường Đại học Bách Khoa TP Hồ Chí Minh đặt vấn đề: “Chúng ta nhìn lại Quy hoạch điện VII và VII hiệu chỉnh là chúng ta nói nhưng làm không được, thậm chí phá vỡ quy hoạch. Tại sao có tình trạng này, cán cân cung cầu điện bị phá vỡ, dẫn đến phải cắt giảm công suất, lưới điện không đủ năng lực truyền tải?”
GS. Lê Chí Hiệp bày tỏ rất ủng hộ quan điểm trong Quy hoạch điện VIII, nhưng ông đề nghị, để tránh lặp lại như quy hoạch trước, cần xây dựng lộ trình triển khai cụ thể, từng giai đoạn. Bộ Công Thương đã đưa ra bản lộ trình thực hiện nhưng vẫn chưa thực sự rõ ràng.
“Chúng ta muốn triển khai Quy hoạch điện VIII có hiệu quả thì cần đưa khung thời gian cụ thể, số liệu, khu vực, lộ trình triển khai theo khung thời gian với từng loại hình năng lượng và phải có kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ”, GS. Lê Chí Hiệp nói.
Các ý kiến tại hội thảo cũng cho hay, định hướng phát triển điện mặt trời tự dùng trong Quy hoạch điện VIII là rất đúng đắn, nhưng cần cụ thể khái niệm, quy mô phát triển, tính liên kết ra sao, đặc biệt là ở trong các khu, cụm công nghiệp… Bên cạnh đó, việc phát triển điện gió ngoài khơi nêu trong Quy hoạch điện VIII, với quan điểm đồng tình, song cần cân nhắc vấn đề chủ quyền quốc gia trước tình trạng có thể xảy ra mua bán dự án qua lại giữa các đơn vị…
Cũng theo Ths. Nguyễn Anh Tuấn, để có thể thực hiện Quy hoạch điện VIII hiệu quả, sau khi Thủ tướng phê duyệt, Bộ Công Thương cần thiết lập kế hoạch chi tiết 5 năm tới để triển khai các công tác như: phân quy mô các nguồn năng lượng tái tạo từ vùng tới các tỉnh; đảm bảo sớm lựa chọn được chủ đầu tư các dự án quan trọng cũng như các dự án điện sạch; có biểu giám sát việc thực hiện đầu tư xây dựng nguồn và lưới điện đồng bộ.
Đặc biệt, với các dự án nguồn điện quan trọng quốc gia, cần thiết có chế độ giám sát nghiêm ngặt từ Chính phủ, Bộ Công Thương, không để xảy ra tình trạng dự án chậm nhiều năm. Riêng với chuỗi khí - điện Lô B Ô Môn và Cá Voi Xanh, các cấp thẩm quyền cần vào cuộc để chỉ đạo tháo gỡ vướng mắc nhằm tránh chậm trễ thêm nguồn điện khí nội địa, tăng cường an ninh và giảm phụ thuộc nhập khẩu.
Với các dự án điện khí hóa lỏng LNG, vì đây là loại hình nguồn điện thay thế điện than, giảm phát thải CO2, Ths. Tuấn cho rằng, cần thiết sớm lập kế hoạch chi tiết về địa điểm, chọn chủ đầu tư; Bộ công Thương chỉ đạo, hỗ trợ cũng như giám sát tối đa chủ đầu tư trong quá trình đầu tư; sớm sàng lọc, loại bỏ các chủ đầu tư kém năng lực hoặc triển khai kiểu cầm chừng. Với nhu cầu phát triển thêm gần 20.000 MW điện khí LNG từ nay đến năm 2030, nếu không thực hiện tốt cả việc chỉ đạo, hỗ trợ lẫn giám sát, sẽ không thể thực hiện.
Ngoài ra, Chính phủ nên giao Bộ Công Thương và các bộ ngành liên quan xây dựng cơ chế đấu thầu để đầu tư các dự án điện năng lượng tái tạo. Từ đó, chọn được các nhà thầu có đủ năng lực về vốn- tài chính, đội ngũ kỹ thuật, dẫn tới giảm chi phí, đảm bảo chất lượng, đúng tiến độ các dự án nêu trên.
Các dự án điện gió ngoài khơi cũng cần thời gian đầu tư xây dựng từ 6 đến 8 năm mới hoàn thành, nếu không sớm chọn được dự án và chủ đầu tư sẽ rất khó thực hiện được quy mô điện gió ngoài khơi đến năm 2030 là 6.000 MW…