Đặc biệt, khi so với mức độ mất giá của các đồng tiền mới nổi và đang phát triển, thanh khoản thị trường vẫn đảm bảo, các giao dịch ngoại tệ diễn ra thông suốt. Các nhu cầu mua ngoại tệ hợp pháp được đáp ứng đầy đủ, kịp thời và Ngân hàng Nhà nước mua ròng ngoại tệ, bổ sung dự trữ ngoại hối Nhà nước... Xung quanh các vấn đề này, phóng viên Thông tấn xã Việt Nam đã có cuộc trao đổi với Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng.
Phó Thống đốc có đánh giá như thế nào về công tác điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước trong năm 2018?
Trong bối cảnh tình hình kinh tế chính trị thế giới năm 2018 có nhiều thách thức và biến động bất thường, Ngân hàng Nhà nước đã chủ động, linh hoạt điều hành chính sách tiền tệ. Đồng thời, phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát và hỗ trợ tăng trưởng ở mức hợp lý, qua đó thu được những kết quả tích cực. Lạm phát bình quân năm 2018 tiếp tục được kiểm soát phù hợp mục tiêu 4%, đánh dấu mấy năm liên tiếp điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước, góp phần quan trọng vào thành công trong việc điều hành lạm phát do Chính phủ và Quốc hội giao.
Ngân hàng Nhà nước đã điều hành chính sách lãi suất một cách một cách linh hoạt, phù hợp với các cân đối vĩ mô và diễn biến thị trường, giữ mặt bằng lãi suất tương đối ổn định để tạo điều kiện đảm bảo nguồn vốn cho kinh doanh sản xuất, hỗ trợ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Cụ thể, tháng 1/2018, trên cơ sở xem xét, phân tích các yếu tố vĩ mô, thị trường tiền tệ, ngoại hối và cân đối tổng thể cung-cầu, Ngân hàng Nhà nước đã điều chỉnh giảm lãi suất chào mua OMO từ 5%/năm xuống còn 4,75%/năm để góp phần giảm chi phí vốn cho tổ chức tín dụng. Ngay từ đầu năm, một số Ngân hàng thương mại đã giảm 0,5%/năm lãi suất cho vay đối với các lĩnh vực ưu tiên. Từ đó đến cuối năm, Ngân hàng Nhà nước đã điều hành để giữ mặt bằng lãi suất trong nước tương đối ổn định trong bối cảnh mặt bằng lãi suất thế giới tăng lên do các ngân hàng trung ương lớn tiếp tục thắt chặt chính sách tiền tệ. Nhờ đó, tạo điều kiện đảm bảo nguồn vốn cho kinh doanh sản xuất, hỗ trợ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Các chỉ tiêu tiền tệ, tín dụng tăng phù hợp với mục tiêu, cơ cấu tín dụng theo đồng tiền diễn biến phù hợp với chủ trương chống Đôla hóa của Chính phủ; chuyển dần từ quan hệ gửi-vay sang quan hệ mua-bán ngoại tệ, tín dụng đối với hầu hết các lĩnh vực ưu tiên tăng cao hơn tín dụng chung và tín dụng đối với lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro có xu hướng chậm lại.
Trên thị trường ngoại tệ, dù có nhiều áp lực từ thị trường quốc tế nhưng tỷ giá trong nước vẫn tương đối ổn định. Đặc biệt, khi so với mức độ mất giá của các đồng tiền mới nổi và đang phát triển, thanh khoản thị trường vẫn đảm bảo. Các giao dịch ngoại tệ diễn ra thông suốt, các nhu cầu mua ngoại tệ hợp pháp được đáp ứng đầy đủ, kịp thời và Ngân hàng Nhà nước mua ròng ngoại tệ, bổ sung dự trữ ngoại hối Nhà nước.
Về điều hành tín dụng, ngay từ đầu năm, căn cứ mục tiêu tăng trưởng và lạm phát Quốc hội giao, Ngân hàng Nhà nước đã xây dựng chỉ tiêu định hướng tín dụng cả năm tăng khoảng 17%, có điều chỉnh phù hợp với tình hình thực tế. Trong điều hành, Ngân hàng Nhà nước đã có nhiều chỉ đạo, giải pháp để tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh; tăng cung ứng vốn tín dụng cho nền kinh tế như chỉ đạo các tổ chức tín dụng tăng trưởng tín dụng ngay từ đầu năm.
Đồng thời, mở rộng tín dụng đi đôi với an toàn, hiệu quả, tập trung vốn vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên. Cùng đó, kiểm soát chặt chẽ tín dụng đối với lĩnh vực tiềm ẩn nhiều rủi ro. Kiên định các giải pháp chính sách để giảm dần tín dụng ngoại tệ phù hợp với chủ trương chống Đôla hóa của Chính phủ, chuyển dần từ quan hệ gửi – vay ngoại tệ sang quan hệ mua – bán ngoại tệ.
Điều hành chính sách tiền tệ cũng đã đảm bảo ổn định thanh khoản thị trường tiền tệ, giảm mặt bằng lãi suất liên ngân hàng, tạo điều kiện để phát hành trái phiếu Chính phủ với kỳ hạn dài và lãi suất thấp hơn.
Nhờ các yếu tố vĩ mô ổn định, lạm phát được kiểm soát chặt chẽ, môi trường kinh doanh được cải thiện mà Việt Nam đã được các tổ chức quốc tế uy tín nâng xếp hạng tín nhiệm quốc gia, cải thiện hình ảnh trong mắt các nhà đầu tư quốc tế. Các Tổ chức xếp hạng tín nhiệm như: Moody’s nâng xếp hạng tín nhiệm quốc gia của Việt Nam từ B1 lên Ba3 với triển vọng thay đổi từ ổn định sang tích cực vào ngày 11/8/2018. Fitch nâng xếp hạng nhà phát hành nợ dài hạn bằng ngoại tệ (IDR) của Việt Nam từ mức BB- lên mức BB với triển vọng ổn định.
Xin Phó Thống đốc cho biết cụ thể hơn về các giải pháp mà Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện để kiểm soát tỷ giá VND góp phần kiểm soát tỷ lệ lạm phát ở mức cho phép, hỗ trợ hoạt động sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp trong bối cảnh cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung?
Trong năm 2018, tỷ giá chịu áp lực chủ yếu từ hàng loạt yếu tố bất lợi từ thị trường quốc tế như đồng USD tăng giá trên thị trường quốc tế trước sự kỳ vọng về lộ trình tăng lãi suất của Fed. Căng thẳng thương mại toàn cầu diễn biến phức tạp, đồng CNY mất giá mạnh. Một số đồng tiền của quốc gia mới nổi mất giá mạnh đã tác động mạnh đến tâm lý thị trường. Tuy nhiên, đến cuối năm 2018, tỷ giá tại Việt Nam vẫn duy trì xu hướng ổn định.
Có được thành công đó, bên cạnh các yếu tố vĩ mô thuận lợi, Ngân hàng Nhà nước điều hành tỷ giá chủ động, linh hoạt, phù hợp với tình hình thị trường tài chính tiền tệ trong nước và quốc tế. Cùng đó, phối hợp đồng bộ các biện pháp, công cụ chính sách tiền tệ để điều tiết thanh khoản, lãi suất VND hợp lý, kiên định với chủ trương từng bước hạn chế tình trạng đô la hóa, ổn định tâm lý thị trường.
Những tháng đầu năm, khi cung cầu ngoại tệ khá thuận lợi, Ngân hàng Nhà nước tranh thủ mua ngoại tệ bổ sung dự trữ ngoại hối Nhà nước. Đặc biệt, từ 7/2/2018, Ngân hàng Nhà nước bắt đầu niêm yết tỷ giá mua kỳ hạn 3 tháng để trì hoãn việc đưa tiền đồng ra mua ngoại tệ, góp phần kiểm soát nguồn tiền cung ứng, hỗ trợ kiểm soát lạm phát, trong khi vẫn mua được ngoại tệ bổ sung dự trữ ngoại hối, khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng các sản phẩm phái sinh ngoại tệ để phòng ngừa rủi ro tỷ giá. Từ tháng 6, thị trường ngoại tệ chịu các áp lực từ diễn biến tiêu cực trên thế giới và tâm lý nhà đầu tư trong nước, Ngân hàng Nhà nước đã kịp thời điều hành đồng bộ các giải pháp nhằm ổn định thị trường, đảm bảo các giao dịch ngoại tệ diễn ra thông suốt.
Phó Thống đốc có thể cho biết về những định hướng, kế hoạch năm 2019 của ngành ngân hàng?
Ngân hàng Nhà nước xác định định hướng điều hành chung là điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt và thận trọng. Đồng thời, phối hợp hài hòa với chính sách tài khóa và các chính sách vĩ mô khác, duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn hỗ trợ cho sản xuất kinh doanh và tăng trưởng. Tiếp tục điều hành lãi suất, tỷ giá linh hoạt, phù hợp với cân đối vĩ mô, diễn biến thị trường tiền tệ và yêu cầu quản lý. Ngoài ra, ổn định thị trường ngoại tệ; tăng trưởng tín dụng đi đôi với nâng cao chất lượng tín dụng; tập trung tín dụng cho các lĩnh vực sản xuất, lĩnh vực ưu tiên. Bên cạnh đó, kiểm soát việc cho vay bằng ngoại tệ; tăng dự trữ ngoại hối nhà nước khi có điều kiện thuận lợi.
Về điều hành lãi suất, trên cơ sở bám sát diễn biến kinh tế vĩ mô và thị trường tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục thực hiện linh hoạt các giải pháp về lãi suất, kết hợp đồng bộ với các công cụ chính sách tiền tệ khác nhằm ổn định thị trường tiền tệ, kiểm soát lạm phát theo mục tiêu và góp phần ổn định kinh tế vĩ mô.
Trong điều hành tỷ giá, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục điều hành tỷ giá linh hoạt, phù hợp với tình hình thị trường tài chính, các cân đối vĩ mô, tiền tệ và mục tiêu chính sách tiền tệ; sẵn sàng bán ngoại tệ can thiệp và phối hợp chặt chẽ, đồng bộ các công cụ chính sách tiền tệ khác để ổn định thị trường ngoại tệ.
Đối với tín dụng, Ngân hàng Nhà nước điều hành các giải pháp tín dụng nhằm kiểm soát quy mô tín dụng phù hợp với chỉ tiêu định hướng. Đồng thời, nâng cao chất lượng tín dụng, tạo điều kiện thuận lợi trong việc tiếp cận vốn tín dụng của nền kinh tế. Bên cạnh đó, tiếp tục tăng cường triển khai các giải pháp hỗ trợ tổ chức tín dụng tăng trưởng tín dụng có hiệu quả, tập trung vào các lĩnh vực sản xuất, lĩnh vực ưu tiên. Kiểm soát chặt chẽ tín dụng đối với lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro. Kiên định kiểm soát cho vay bằng ngoại tệ, giảm dần theo lộ trình phù hợp.
Về định hướng điều hành nghiệp vụ thị trường mở, trong thời gian tới, Ngân hàng Nhà nước sẽ tiếp tục theo dõi sát tình hình vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng, diễn biến thị trường tiền tệ, ngoại hối để điều hành chủ động, linh hoạt nghiệp vụ thị trường mở nhằm đảm bảo thanh khoản cho hệ thống, ổn định thị trường tiền tệ, góp phần kiểm soát tiền tệ, hỗ trợ ổn định tỷ giá.
Về định hướng điều hành tái cấp vốn và dự trữ bắt buộc, ngân hàng sẽ thực hiện tái cấp vốn cho tổ chức tín dụng với khối lượng, lãi suất và thời hạn hợp lý để hỗ trợ thanh khoản, cho vay theo các chương trình đã được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, hỗ trợ cơ cấu lại các tổ chức tín dụng và xử lý nợ xấu. Điều hành công cụ dự trữ bắt buộc đồng bộ với các công cụ chính sách tiền tệ khác.
Xin cảm ơn Phó Thống đốc!