Cơ bản hoàn thành hệ thống giao thông kết nối nội vùng, liên vùng và khu vực; đầu mối giao thương, hội nhập khu vực và thế giới.
Đồng bộ hạ tầng
Theo Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải Nguyễn Văn Thắng, thời gian qua, vùng Đông Nam bộ đã tập trung nguồn lực để đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông. Cụ thể, đối với các tuyến cao tốc đã đưa vào khai thác được 108km, đang thi công 226km và chuẩn bị đầu tư là 414km; phấn đấu đến 2025 có 350km, đến 2030 có 750km đường cao tốc đưa vào khai thác.
Hiện, vùng Đông Nam bộ đã nâng cấp tuyến đường sắt đoạn từ Nha Trang – Tp. Hồ Chí Minh; đẩy nhanh tiến độ các dự án đường sắt đô thị Bến Thành - Suối Tiên, Bến Thành -Tham Lương; nghiên cứu xây dựng đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam, TP Hồ Chí Minh - Cần Thơ, Biên Hòa - Vũng Tàu, Thủ Thiêm - Long Thành.
Đông Nam bộ cũng đã đưa vào hoạt động các tuyến vận tải ven biển; đang triển khai cải tạo nâng cấp các cầu trên tuyến đường thủy phía Nam, nâng cấp hành lang đường thủy Bắc - Nam và Đông - Tây, kết nối với cảng Cái Mép; khai thác cảng biển trung chuyển quốc tế Cái Mép, nâng cấp tuyến luồng Cái Mép – Thị Vải vào khu bến cảng container và đang nghiên cứu xây dựng cảng trung chuyển quốc tế Cần Giờ.
Chủ tịch UBND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu Nguyễn Văn Thọ cho rằng, trong thời gian ngắn, hội đồng điều phối vùng Đông Nam Bộ với sự chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, các Phó Thủ tướng Chính phủ và các bộ, ngành Trung ương đã đạt được kết quả rất rõ nét, đặc biệt trong hệ thống hạ tầng giao thông kết nối vùng.
Nói về tiến độ thực hiện các dự án giao thông liên vùng đi qua địa bàn tỉnh Đồng Nai, ông Võ Tấn Đức, Quyền Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Nai chia sẻ, Đồng Nai đang triển khai xây dựng đường cao tốc Biên Hòa – Vũng Tàu và đường vành đai 3; tỉnh phấn đấu đến tháng 6 năm 2024 tỉnh sẽ thực hiện bàn giao 100% mặt bằng để thực hiện 2 dự án này.
Chủ tịch UBND TP Hồ Chí Minh Phan Văn Mãi cũng cho biết, qua nghiên cứu tiền khả thi, tổng chiều dài tuyến Vành đai 4 Tp. Hồ Chí Minh khoảng 206,82km (Bà Rịa - Vũng Tàu 18,23km; Đồng Nai 45,54km; Bình Dương 47,45km; TP Hồ Chí Minh 17,3km; Long An 78,3km). Tổng mức đầu tư (giai đoạn 1) khoảng 127.230 tỷ đồng, gồm phần xây dựng 78.074 tỷ đồng, phần giải phóng mặt bằng là 49.155 tỷ đồng.
“Đường Vành đai 4 TP Hồ Chí Minh có ý nghĩa quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của các tỉnh thuộc vùng Đông Nam bộ, vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và có tính kết nối giao thông liên vùng, để giải quyết lưu thông hàng hóa, giảm chi phí logistic”, Chủ tịch UBND TP Hồ Chí Minh nhấn mạnh.
Tuy nhiên, theo Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải Nguyễn Văn Thắng, hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông của vùng vẫn phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế và nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của vùng Đông Nam bộ. Mạng lưới kết cấu hạ tầng giao thông cấp vùng, liên vùng còn thiếu đồng bộ, hiện đại. Trong số đó, tuyến vành đai 3 chưa hoàn chỉnh, tuyến vành đai 4 đang trong quá trình chuẩn bị đầu tư, tiến trình xây dựng đường sắt đô thị còn chậm, chưa được giải quyết căn cơ về công tác giao thông tại các đô thị.
Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải cho rằng, vùng Đông Nam Bộ cần ưu tiên nguồn lực để tập trung đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông hiện đại, đồng bộ theo các quy hoạch, dự kiến tổng nhu cầu vốn đầu tư cho giao thông vùng Đông Nam bộ từ nay đến 2030 là khoảng 964 nghìn tỷ đồng. Trong đó, giai đoạn 2021-2025, đầu tư khoảng 304 nghìn tỷ đồng gồm: Ngân sách Trung ương bố trí trên 88 nghìn tỷ đồng, ngân sách địa phương bố trí hơn 47 nghìn tỷ đồng, vốn của doanh nghiệp nhà nước là 109 nghìn tỷ đồng và vốn huy động của nhà đầu tư là 59.346 tỷ đồng.
Trung tâm kết nối
Theo quy hoạch, tầm nhìn đến năm 2050, Đông Nam Bộ trở thành vùng phát triển, có thu nhập cao; tiềm lực kinh tế mạnh, cơ cấu kinh tế hiện đại; là trung tâm khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, công nghiệp công nghệ cao, logistics và là trung tâm tài chính quốc tế thuộc nhóm hàng đầu của khu vực và thế giới; có kết cấu hạ tầng hiện đại, đồng bộ.
Vùng Đông Nam Bộ sẽ phát triển hài hòa giữa kinh tế với văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu; có chất lượng cuộc sống cao, có trình độ y tế, giáo dục thuộc nhóm dẫn đầu Đông Nam Á; môi trường sinh thái được bảo vệ, phát triển hiệu quả theo hướng kinh tế xanh; các giá trị, bản sắc văn hóa tốt đẹp của các dân tộc được giữ gìn, phát huy. Quốc phòng, an ninh và trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm vững chắc; đối ngoại và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Tốc độ tăng trưởng tổng ngân sách trên địa bàn (GRDP) vùng Đông Nam Bộ giai đoạn 2031- 2050 đạt khoảng 7,5%/năm, GRDP/người đến năm 2050 đạt khoảng 54.000 USD/người/năm.
Trong số đó, TP Hồ Chí Minh sẽ là hạt nhân, cực tăng trưởng của vùng; trung tâm kinh tế, tài chính, dịch vụ của châu Á, nơi tập trung các định chế tài chính quốc tế, các tập đoàn kinh tế lớn của thế giới; phát triển ngang tầm các đô thị lớn trên thế giới, là điểm đến hấp dẫn toàn cầu.
Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Huỳnh Thành Đạt cho rằng, Đông Nam Bộ muốn phát triển khoa học công nghệ xứng tầm thì cần tập trung vào các chính sách hỗ trợ hoạt động đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp sáng tạo trong các lĩnh vực ưu tiên của tỉnh, thành phố trong vùng; chính sách về công nghệ bán dẫn. Chính sách về ngành nghề ưu tiên thu hút nhà đầu tư chiến lược, đầu tư nghiên cứu và hỗ trợ chuyển giao công nghệ cao trong các lĩnh vực công nghệ thông tin, sinh học, tự động hóa, năng lượng sạch, đầu tư trong lĩnh vực công nghiệp bán dẫn…
Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt cho biết, thời gian tới, để nâng cao năng lực hoạt động công nghệ tại TP Hồ Chí Minh và áp dụng thí điểm chính sách đặc thù ở Tp. Hồ Chí Minh về cơ chế tuyển chọn chương trình dự án khoa học công nghệ, cơ chế tài chính, mua sắm công… đối với lĩnh vực ưu tiên là: AI, công nghệ sinh học… Bộ Khoa học công nghệ đã xây dựng và công bố bộ chỉ số đổi mới sáng tạo cho địa phương, với sự hỗ trợ kỹ thuật của tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới, được đồng bộ với chỉ số đổi mới sáng tạo các quốc gia.
Vùng Đông Nam Bộ sẽ đẩy mạnh cơ cấu lại kinh tế vùng gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, tạo đột phá nâng cao năng suất dựa trên khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Phát triển một số ngành công nghiệp, dịch vụ hiện đại, trở thành động lực tăng trưởng mới như: công nghiệp bán dẫn, sản xuất chip, dịch vụ tài chính (gắn với hình thành trung tâm tài chính quốc tế), logistics. Tập trung phát triển vùng Đông Nam Bộ thành vùng động lực quốc gia, trở thành trung tâm kinh tế hàng đầu của cả nước và khu vực Đông Nam Á. Xây dựng đô thị TP Hồ Chí Minh hiện đại, thông minh, dẫn dắt và tạo hiệu ứng lan tỏa, liên kết vùng đô thị, đủ sức cạnh tranh, hội nhập khu vực và quốc tế, có vai trò quan trọng trong mạng lưới đô thị của khu vực.
Bộ Trưởng Bộ Kế hoạch đầu tư Nguyễn Chí Dũng nhận định, với sự nổ lực, quyết tâm cao và kết quả đã đạt được, với định hướng của Bộ chính trị, sự chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và sự quyết tâm đồng lòng chắc chắn sẽ tạo nên được bức tranh tươi sáng cho vùng Đông Nam Bộ trong tương lai, xứng đáng đi đầu là hình mẫu trong tất cả các mô hình phát triển của đất nước, đi đầu trong đổi mới, cải cách và phát triển. Vùng Đông Nam Bộ sẽ có những bước phát triển như “vũ bão” do sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, người dân và doanh nghiệp.