Phát huy thế mạnh cây cà phê
Trên những nương, vườn trước đây ở Sơn La chủ yếu trồng sắn hoặc ngô, giờ đây đã được phủ màu xanh bát ngát của cây cà phê, một cuộc sống ấm no đang hiện hữu trong từng nếp nhà.
Năm 2020, diện tích cà phê tỉnh Sơn La đạt 17.804 ha, sản lượng ước đạt 25.581 tấn (cà phê nhân). Diện tích trồng cà phê chủ yếu tập trung tại các huyện: Mai Sơn, Thuận Châu, Sốp Cộp, Yên Châu và TP Sơn La.
Từ khi chuyển đổi sang trồng cà phê, bà con dân bản ai cũng phấn khởi. Không chỉ đem lại giá trị kinh tế, cây cà phê còn phủ xanh đất trống đồi trọc, không còn thấy cảnh từng quả đồi trơ trọi sau mỗi vụ thu hoạch ngô.
Có mặt tại mảnh đất Sơn La từ những năm 1945, sau hơn 70 năm, cây cà phê Arabica đã trở thành cây trồng chủ lực ở nhiều vùng núi cao của tỉnh miền núi Tây Bắc này. Với diện tích trồng lớn, Sơn La được mệnh danh là thủ phủ của cây cà phê Arabica của cả nước, cho sản lượng trên 30 nghìn tấn cà phê nhân mỗi năm.
Có mùi thơm như hoa quả, vị chua thanh xen lẫn với vị đắng nhẹ, cà phê Arabica của Sơn La hiện đã được bảo hộ chỉ dẫn địa lý và trở thành một trong các sản phẩm chủ lực của Chương trình mỗi xã, phường 1 sản phẩm (OCOP) của địa phương đem lại giá trị kinh tế cao, từng bước khẳng định vị trí vững chắc trên bản đồ cà phê thế giới.
Sở dĩ, "cà phê Sơn La" có được đặc thù và danh tiếng như vậy một phần là nhờ thổ nhưỡng, khí hậu của khu vực địa lý thích hợp với giống cà phê Arabica. Nhiệt độ chênh lệch ngày đêm cao trên 10 độ C. Đặc biệt, vào ban đêm có sương, nên hầu hết cà phê trồng ở đây không phải tưới tiêu, sương xuống giữ được độ ẩm cho đất.
Ông Vương Văn Hải, Chủ tịch Hiệp hội cà phê Sơn La, cho biết: Sau khi được cấp chỉ dẫn địa lý (năm 2017), bảo hộ nhãn hiệu, xây dựng nhãn hiệu cà phê Sơn La đã phát huy được giá trị, mở rộng vùng sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm. Đến nay, tỉnh đã và đang khuyến khích và hướng dẫn các hộ dân phát huy nội lực, chuyển đổi diện tích cây trồng kém hiệu quả sang trồng cà phê.
Kết nối người nông dân vào chuỗi cung ứng
Tuy nhiên, theo bà Cầm Thị Phong, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Sơn La, mặc dù có lợi thế về chất lượng, năng suất, nhưng hoạt động sản xuất, chế biến cà phê Sơn La vẫn còn tồn tại, hạn chế như: chưa hình thành nhiều tổ chức liên kết trong sản xuất, diện tích cà phê già cỗi cần cải tạo chiếm tỷ lệ khá lớn, chất lượng giống chưa đảm bảo; năng suất, chất lượng sản phẩm cà phê chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế…
Từ thực trạng trên, giải pháp tối ưu để từng bước gia tăng giá trị cho cà phê cũng như đem lại sự bền vững cho sản phẩm này cần tính đến khả năng liên kết trong sản xuất cà phê, đưa người nông dân vào chuỗi cung ứng sản phẩm.
Chia sẻ về vùng cà phê nguyên liệu của gia đình, chị Cà Thị Biên - bản Tong Chinh, xã Chiềng Ban, huyện Mai Sơn cho biết, ở bản mỗi gia đình đều có ruộng cà phê rộng vài ha nhờ chuyển đổi từ ngô, khoai. Tuy nhiên, thu nhập không đều do chưa biết thương thảo về giá bán, mặc cho thương lái quyết định giá thu mua.
Nhằm hỗ trợ nông dân trồng cà phê ở tỉnh Sơn La một cách bền vững trong chuỗi cung ứng với các công ty liên quan khác, Tổ chức Cứu trợ, Phát triển Quốc tế (FIDR) - một tổ chức phi chính phủ quốc tế từ Nhật Bản, đã triển khai Dự án “Phát triển Cộng đồng cho các hộ sản xuất cà phê ở tỉnh Sơn La, Việt Nam”. Với sự hợp tác của Trường Đại học Tây Bắc, thành phố Sơn La, tập đoàn bán lẻ Nhật Bản Aeon và các công ty trong chuỗi cung ứng cà phê, dự án được kỳ vọng sẽ hỗ trợ nông dân trồng cà phê ở tỉnh Sơn La không chỉ có đầu ra cho sản phẩm mà còn tác động tích cực đến đời sống của người dân trồng cà phê.
Cụ thể, dự án sẽ được triển khai trong vòng 2 năm từ 2021 - 2023 cho khoảng 4,000 hộ thuộc 6 xã của thành phố Sơn La, huyện Thuận Châu và huyện Mai Sơn. Các hoạt động chính của dự án bao gồm hỗ trợ cộng đồng, hỗ trợ nâng cao công nghệ và kỹ năng nông nghiệp, giải pháp thị trường thúc đẩy nông nghiệp đầu vào thấp. Cà phê Sơn La đạt các tiêu chuẩn bền vững đạt sẽ được xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản và ra thế giới thông qua các công ty trong chuỗi cung ứng cà phê.
TS. Vũ Quang Giảng, Trưởng Khoa Nông Lâm (Đại học Tây Bắc) chia sẻ, cà phê Sơn La đã phát triển ổn định về diện tích, tuy nhiên trình độ canh tác cà phê của cộng đồng các dân tộc ở tỉnh Sơn La chưa đồng đều ở các vùng.
“Vấn đề cốt lõi phát triển cà phê ở Sơn La là làm thế nào nâng cao kỹ năng sản xuất cà phê Sơn La theo hướng an toàn sản phẩm, môi trường; kết nối chuỗi sản xuất, chế biến và tiêu thụ, nâng cao giá trị sản phẩm, tăng sinh kế cho cộng đồng người dân trồng cà phê ở tỉnh Sơn La. Đó là cam kết chúng tôi sẽ thực hiện bằng việc cả cán bộ có trình độ, am hiểu về cộng đồng, về cây cà phê về địa phương để thực hiện dự án”, TS. Vũ Quang Giảng đánh giá.
Cùng chị Cà Thị Biên, anh Tòng Văn Xum, hội viên nông dân bản Nong Lọ, xã Chiềng Đen, thành phố Sơn La cũng sẽ là những nông dân tham gia vào dự án “Phát triển Cộng đồng cho các hộ sản xuất cà phê ở tỉnh Sơn La, Việt Nam”. Anh Xum cho biết, tháng 4 vừa rồi, các cán bộ Nhật Bản và Trường Đại học Tây Bắc đã về thăm bà con ở bản. “Điều chúng tôi vui mừng nhất là với việc tham gia chuỗi liên kết này, bên cạnh cây trồng chủ lực của địa phương là cà phê, các đặc sản của bản như mận hậu, xoài, mơ cũng có thể được giới thiệu rộng khắp. Được hướng dẫn cách thương lượng giá cả, hoặc làm sao trồng cà phê với chi phí thấp nhất, chúng tôi có thể giảm bớt nợ nần, từ đó có thể thoát nghèo được”, anh Tòng Văn Xum chia sẻ.
Cây cà phê Sơn La đang dần khẳng định vị trí là cây trồng chủ lực, góp phần xóa đói giảm nghèo, mang lại thu nhập ổn định cho nhiều hộ nông dân trong tỉnh. Đồng thời, những nỗ lực của ngành nông nghiệp và địa phương đang tạo ra sản phẩm có giá trị xuất khẩu, góp phần quan trọng trong chuyển đổi cơ cấu cây trồng và thực hiện các tiêu chí xây dựng nông thôn mới ở Sơn La.
Với định hướng đến năm 2030 của tỉnh Sơn La là phát triển cà phê theo hướng tập trung quy mô lớn, ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất, đầu tư thâm canh bằng giống cà phê mới, gắn kết chặt chẽ với công nghiệp chế biến và bảo vệ môi trường, đến năm 2030, tỉnh giữ ổn định diện tích 16.000 ha, gồm phát triển vùng nguyên liệu cà phê đạt các tiêu chuẩn bền vững đạt khoảng 13.500 ha.