Do vậy kiểm soát chặt chẽ nợ công như xây dựng một giới hạn cho tỷ lệ nợ trên GDP, tỷ lệ nợ trên thu ngân sách… có vai trò quan trọng trong việc giữ vững ổn định nền tài chính quốc gia. Phóng viên TTXVN có cuộc trao đổi với ông Võ Hữu Hiển, Phó cục trưởng Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại (Bộ Tài chính) về vấn đề này.
Xin ông cho biết tình trạng nợ công của Việt Nam hiện nay như thế nào?
Với sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, quản lý nợ công trong những năm gần đây đã đạt nhiều kết quả tích cực, đóng góp quan trọng vào việc hoàn thành toàn diện các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, ổn định vĩ mô và tăng cường hệ số tín nhiệm quốc gia.
Chúng ta đã thực hiện tốt nhiệm vụ huy động vốn vay với chi phí thấp gắn liền với mức độ rủi ro hợp lý để bổ sung nguồn lực cho đầu tư phát triển kinh - xã hội, góp phần thúc đẩy phát triển thị trường vốn, thị trường trái phiếu trong nước.
Việc kiểm soát hiệu quả, đảm bảo các chỉ tiêu về nợ nằm trong giới hạn cho phép. Với chủ trương thực thi chính sách tài khoá thận trọng, tốc độ tăng quy mô nợ công đã giảm từ mức 18,1% giai đoạn 2011 - 2015 xuống còn 8,2%/năm trong giai đoạn 2016 - 2018. Nợ công so với GDP giảm từ mức 63,7% vào năm 2016 xuống còn 58,4% tính đến cuối năm 2018.
Qua các đợt làm việc đánh giá bền vững nợ hàng năm, Quỹ Tiền tệ Quốc tế và Ngân hàng Thế giới cũng đánh giá cao việc triển khai hiệu quả cam kết củng cố tài khóa và biện pháp tái cơ cấu, kiểm soát chặt chẽ nợ công của Chính phủ Việt Nam. Các tổ chức này đánh giá nợ công và nợ nước ngoài của Việt Nam hiện ở mức bền vững. Yếu tố này cũng góp phần quan trọng để các tổ chức xếp hạng quốc tế liên tục nâng hạng hệ số tín nhiệm quốc gia của Việt Nam trong thời gian gần đây.
Việc tái cơ cấu nợ công, nợ Chính phủ đang được thực hiện theo hướng nào nhằm đảm bảo nền tài chính an toàn bền vững, thưa ông?
Trong thời gian qua, nhằm tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại nợ công theo đúng định hướng của Bộ Chính trị, Quốc hội và Chính phủ, Bộ Tài chính đã giảm dần tỷ trọng nợ nước ngoài, tập trung huy động vốn trong nước với lãi suất hợp lý, phát hành trái phiếu Chính phủ kỳ hạn dài để giảm áp lực trả nợ trong ngắn hạn. Nhờ đó, thúc đẩy phát triển thị trường trái phiếu Chính phủ trong nước thông qua đa dạng hóa các sản phẩm và mở rộng cơ sở nhà đầu tư dài hạn, đồng thời siết chặt việc cấp bảo lãnh Chính phủ cho các khoản vay mới, hạn chế rủi ro nghĩa vụ nợ dự phòng cho ngân sách nhà nước.
Mặc khác, cơ cấu nợ Chính phủ có chuyển biến khả quan theo hướng giảm dần sự phụ thuộc vào các khoản vay nước ngoài. Tỷ trọng dư nợ trong nước hiện nay chiếm khoảng 62% nợ Chính phủ (so với tỷ trọng 40% vào năm 2010).
Kỳ hạn phát hành trái phiếu Chính phủ cũng được kéo dài. Từ đầu năm 2019 đến nay, kỳ hạn phát hành trái phiếu Chính phủ bình quân duy trì ở mức cao 13,3 năm, tăng mạnh so với mức bình quân 4,8 năm trong giai đoạn 2011 - 2015.
Lãi suất phát hành giảm đáng kể, góp phần giảm chi phí huy động vốn cho ngân sách nhà nước. Lãi suất phát hành trái phiếu Chính phủ trong nước giảm từ mức bình quân 12%/năm trong giai đoạn 2011 - 2015 xuống còn khoảng 4,95%/năm từ đầu năm đến nay.
Cơ cấu nhà đầu tư có sự cải thiện căn bản. Đến nay, tỷ lệ nắm giữ trái phiếu Chính phủ của các nhà đầu tư là tổ chức tài chính phi ngân hàng tiếp tục tăng lên, đạt khoảng 53%, tỷ lệ nắm giữ của các ngân hàng thương mại đạt khoảng 47%.
Vậy kế hoạch trả nợ của Việt Nam trong những năm tiếp theo sẽ như thế nào để không gây áp lực lên ngân sách, thưa ông?
Trong những năm vừa qua, Chính phủ luôn chủ động bố trí đủ nguồn trong dự toán cân đối ngân sách để trả nợ trong mức đã được Quốc hội phê duyệt, theo đúng cam kết với các nhà đầu tư, không để xảy ra tình trạng nợ quá hạn ảnh hưởng đến uy tín của Chính phủ và hình ảnh của Việt Nam trên trường quốc tế.
Chỉ tiêu nghĩa vụ trả nợ so với thu ngân sách nhà nước được duy trì ở mức hợp lý. Đến cuối năm 2018 đạt khoảng 15,9%, thấp hơn ngưỡng an toàn được Quốc hội cho phép là 25%. Để đạt được kết quả này, Bộ Tài chính đã chủ động thực hiện linh hoạt hàng loạt các biện pháp tái cơ cấu nợ trái phiếu Chính phủ trong nước và quốc tế trong thời gian qua để giảm đỉnh nợ, không để nghĩa vụ trả nợ tập trung quá nhiều vào một năm, giảm áp lực cân đối nguồn của ngân sách nhà nước.
Trong đó, tận dụng thị trường vốn trong nước tương đối thuận lợi, mức lãi suất trung bình phát hành trái phiếu Chính phủ hiện ở mức 4,95%/năm, thấp hơn so với năm 2017 là 7,0%/năm. Bộ Tài chính thực hiện tái cơ cấu một phần danh mục trái phiếu Chính phủ đã phát hành trước đây để giãn đỉnh nợ và giảm nghĩa vụ nợ của Chính phủ.
Đặc biệt, trong bối cảnh thị trường tài chính quốc tế thuận lợi, Bộ Tài chính đã chủ động phát hành trái phiếu quốc tế mới để mua lại nợ gốc 2 khoản trái phiếu quốc tế đã phát hành năm 2010 và năm 2005, giãn nghĩa vụ trả nợ gốc cho ngân sách khi đến hạn trái phiếu quốc tế vào năm 2015 và 2020.
Tuy vậy, cùng với ảnh hưởng của việc Việt Nam tốt nghiệp vốn vay ưu đãi dành cho các nước nghèo và kém phát triển của Hiệp hội Phát triển quốc tế thuộc Ngân hàng Thế giới (IDA) kể từ năm 2017, các chỉ tiêu chi phí - rủi ro danh mục nợ Chính phủ, đặc biệt là nợ nước ngoài, có xu hướng kém thuận lợi hơn trước đây. Trong bối cảnh cân đối ngân sách cho chi trả nợ còn nhiều khó khăn, đồng thời để phòng ngừa rủi ro thanh khoản cho danh mục nợ công, trong thời gian tới Bộ Tài chính sẽ tiếp tục theo dõi diễn biến thị trường để triển khai các phương án mua lại, hoán đổi trái phiếu Chính phủ đáo hạn trong năm 2020 và 2021 tại các thời điểm trung - dài hạn.
Để tiếp tục đảm bảo kiểm soát chặt chẽ nợ công, Bộ Tài chính sẽ có những giải pháp như thế nào, thưa ông ?
Việc quản lý nợ công và tái cơ cấu nợ công từ nay đến cuối giai đoạn 2020 và giai đoạn 5 năm tiếp theo cần được tiếp tục triển khai đồng bộ với việc thực hiện các mục tiêu, giải pháp cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng lực cạnh tranh; trong đó, có cơ cấu lại ngân sách nhà nước, đầu tư công, khu vực doanh nghiệp nhà nước, hệ thống các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng.
Bộ sẽ tiếp tục kiểm soát chặt chẽ các chỉ tiêu an toàn nợ. Việc nghiên cứu, đề xuất các ngưỡng an toàn nợ cho giai đoạn 5 năm tới cần được đánh giá hết sức thận trọng, không chỉ tập trung vào quy mô nợ so với GDP mà còn phải phù hợp với khả năng chi trả nợ của ngân sách nhà nước, ưu tiên tạo thêm dư địa để bố trí nguồn lực ngân sách cho đầu tư phát triển.
Bên cạnh đó, Bộ thực hiện cơ cấu lại danh mục nợ công thông qua các nghiệp vụ quản lý nợ chủ động; thúc đẩy phát triển thị trường vốn trong nước, thị trường trái phiếu Chính phủ cả về chiều sâu và chiều rộng theo hướng đa dạng hóa công cụ nợ và mở rộng cơ sở nhà đầu tư. Đối với vốn vay nước ngoài, Bộ sẽ thực hiện đồng bộ các chủ trương, chính sách lớn trong việc huy động, quản lý và sử dụng vốn vay ODA, vay ưu đãi, tập trung cho chi đầu tư phát triển, không sử dụng cho chi thường xuyên.
Song song với các giải pháp nói trên, Bộ Tài chính cũng kiểm soát chặt chẽ các khoản vay của cơ quan địa phương, hoạt động vay nợ nước ngoài của doanh nghiệp và tổ chức tín dụng theo hình thức tự vay, tự trả, đặc biệt là các khoản nợ ngắn hạn.
Xin cảm ơn ông !
Bài cuối: Siết chặt kỷ cương