Khơi thông, sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển

Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, thực chất, hiệu quả là hết sức cần thiết để kinh tế Việt Nam phát triển nhanh, bền vững.

Chú thích ảnh
Dây chuyền hàn vỏ xe bằng robot tại Công ty TNHH Một thành viên Sản xuất ô tô THACO MAZDA tại Khu kinh tế mở Chu Lai (Quảng Nam). Ảnh: Danh Lam/TTXVN

Kinh tế nước ta có độ mở lớn, bất kỳ biến động nào trên thế giới về kinh tế, địa chính trị đều tác động đến kinh tế Việt Nam. Trong khi đó, năng lực tự chủ của các ngành sản xuất trong nền kinh tế còn ở mức thấp với việc phải nhập khẩu hầu hết công nghệ, máy móc thiết bị, phụ tùng, nguyên, nhiên vật liệu cho sản xuất. Trong bối cảnh đó, việc xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, thực chất, hiệu quả là hết sức cần thiết để kinh tế Việt Nam phát triển nhanh, bền vững. Qua đó, nâng cao sức mạnh nội lực; xử lý hiệu quả các vấn đề nội tại và thách thức nổi lên, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

TTXVN xin giới thiệu bài viết của chuyên gia kinh tế TS. Nguyễn Bích Lâm, nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê xung quanh nội dung liên quan đến xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ để kinh tế Việt Nam vượt qua khó khăn, phát triển nhanh và bền vững.

Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ là tất yếu khách quan

Hiện nay, kinh tế, chính trị thế giới trải qua các biến cố liên tiếp, bất định khó lường, khiến trật tự và hoạt động kinh tế thế giới thay đổi mạnh mẽ. Cạnh tranh địa chiến lược, địa kinh tế, cạnh tranh thương mại và công nghệ giữa các nước lớn ngày càng gay gắt, trên nhiều lĩnh vực. Các giá trị của chủ nghĩa tự do kinh tế bị thách thức nghiêm trọng, phi toàn cầu hóa kinh tế thế giới. Chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch quay trở lại với sự can thiệp của chính phủ vào nền kinh tế.

Đạt được độc lập, tự chủ về kinh tế có ý nghĩa vô cùng quan trọng, đảm bảo ổn định kinh tế - xã hội, giữ vững độc lập chủ quyền quốc gia. Độc lập về kinh tế đảm bảo nền kinh tế phát triển không phụ thuộc vào bên ngoài, phát triển trên mọi phương diện dựa trên nguồn lực, sức mạnh và công nghệ trong nước phù hợp với điều kiện và bối cảnh thực tế của đất nước.

Một số thách thức

Sau hơn 30 năm đổi mới, hội nhập quốc tế, thế và lực của nền kinh tế Việt Nam đã tăng lên đáng kể. Đất nước đã ra nhập nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình. Bên cạnh những thành tựu, tiềm năng và lợi thế phát triển, nền kinh tế nước ta vẫn đứng trước nhiều khó khăn, thách thức.

Chất lượng tăng trưởng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế còn nhiều hạn chế. Tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối cao nhưng chủ yếu dựa nhiều vào các yếu tố phát triển theo chiều rộng, năng suất lao động thấp so với các nước trong khu vực.

Kinh tế Việt Nam có độ mở lớn, sản xuất và xuất khẩu phụ thuộc nhiều vào nguyên vật liệu nhập khẩu từ bên ngoài, chi phí nguyên vật liệu nhập khẩu chiếm tới 40,11% trong tổng chi phí nguyên vật liệu dùng trong sản xuất của nền kinh tế, tỷ lệ này trong ngành công nghiệp chế biến chế tạo - ngành có vai trò quan trọng đóng góp vào tăng trưởng của đất nước chiếm tới 50,98%.

Công nghiệp hỗ trợ chậm phát triển khiến Việt Nam chưa tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Nguyên vật liệu nhập khẩu dùng cho sản xuất phụ thuộc vào một số ít thị trường. Đây là rủi ro đối với kinh tế Việt Nam khi các thị trường này xảy ra biến cố. Chẳng hạn, Trung Quốc là thị trường chủ yếu của Việt Nam với kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa chiếm gần 25% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của toàn bộ nền kinh tế, nhập khẩu tư liệu sản xuất từ Trung Quốc chiếm khoảng 1/3 tổng kim ngạch nhập khẩu tư liệu sản xuất. Khi thị trường này xảy ra biến cố sẽ ảnh hưởng đến kinh tế Việt Nam.

Trong những năm qua, vị thế kinh tế Việt Nam trong thương mại quốc tế được củng cố và khẳng định. Tuy vậy, thương mại quốc tế Việt Nam phụ thuộc khá lớn vào khu vực đầu tư nước ngoài (FDI).

Từ năm 2018 đến nay, dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam có xu hướng chuyển dịch rất đáng chú ý với mua bán và sáp nhập (M&A) ngày càng chiếm tỷ trọng lớn và có tốc độ tăng nhanh; trong đó, vốn từ Trung Quốc và Hong Kong (Trung Quốc) tăng mạnh.

Khi dịch COVID-19 bùng phát, xu hướng bảo hộ ngày càng gia tăng. Chính phủ các nước đã khẩn trương đưa ra giải pháp bảo vệ các doanh nghiệp có thể bị phá sản do đại dịch khỏi sự thâu tóm bởi nước ngoài.

Bên cạnh đó, chất lượng nguồn nhân lực thấp, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Giáo dục, đào tạo hướng tới nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nhưng chuyển biến chậm. Chưa có chính sách trọng dụng hiệu quả nhân tài quốc gia. Đội ngũ cán bộ, công chức chưa đáp ứng yêu cầu phát triển.

Giải pháp xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ

Đại hội Đảng lần thứ XIII thổi bùng ngọn lửa khát vọng một Việt Nam hùng cường. Để hiện thực hoá khát vọng cao quý và vinh quang này trong bối cảnh thế giới có nhiều bất định, biến đổi khó lường, kinh tế Việt Nam hội nhập sâu, rộng vào kinh tế toàn cầu, cơ hội và thách thức đan xen, nhưng khó khăn thách thức nhiều hơn. Từ đó, khẩn trương xây dựng và phát triển nền kinh tế độc lập, tự chủ.

Để xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, hệ thống chính trị cần khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Phát huy trí tuệ, bản lĩnh, đạo đức, tài năng, phẩm chất của con người Việt Nam để thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước.

Đảng, Quốc hội và Chính phủ phải khơi thông, huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển; trong đó, nội lực là cơ bản, chiến lược, lâu dài và quyết định; ngoại lực là quan trọng, đột phá, thường xuyên; thúc đẩy mạnh mẽ quá trình chuyển hóa ngoại lực thành nội lực. Tạo chuyển biến rõ nét trong thực hiện các đột phá chiến lược về thể chế, nguồn nhân lực và hệ thống kết cấu hạ tầng.

Cùng với đó, tập trung hoàn thiện thể chế phát triển, cơ cấu lại nền kinh tế và phát triển doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Nâng cao khả năng chống chịu, sức cạnh tranh của từng doanh nghiệp, từng ngành, lĩnh vực và toàn nền kinh tế.

Theo đó, Chính phủ thực hiện các nhóm giải pháp như: phát huy nội lực, tận dụng ngoại lực. Vốn, công nghệ, năng lực quản lý, khả năng kinh doanh là các nội lực và ngoại lực của kinh tế Việt Nam.

Để phát huy nội lực, tranh thủ ngoại lực, Chính phủ sửa đổi bổ sung và hoàn thiện luật pháp, cơ chế, chính sách để khơi thông, giải phóng tối đa và nâng cao hiệu quả sử dụng các nội lực và ngoại lực của đất nước. Đồng thời, nâng cao năng lực kiến tạo, quản trị quốc gia; đổi mới và nâng cao chất lượng công tác xây dựng chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội trên cơ sở tăng cường năng lực, chất lượng phân tích, đánh giá, dự báo các lĩnh vực.

Bên cạnh đó, Chính phủ khẩn trương cải cách thể chế, sửa đổi, bổ sung và xoá bỏ những quy định cản trở, không còn phù hợp với quá trình phát triển. Các ưu tiên chính sách phải được xác lập trên cơ sở lợi ích quốc gia.

Về tăng cường tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế, Chính phủ quán triệt quan điểm và mục tiêu nâng cao năng lực, tính độc lập, tự chủ trong sản xuất kinh doanh với các nhóm giải pháp. Đó là cơ cấu lại nền kinh tế; sử dụng linh hoạt, hợp lý, hiệu quả các công cụ của chính sách tài khoá, tiền tệ; củng cố ổn định vĩ mô, tăng khả năng chống chịu của nền kinh tế với các biến động bên ngoài.

Tiếp đến, Chính phủ nâng cao tính độc lập tự chủ, năng lực cạnh tranh của thương mại trong nước và quốc tế; gia tăng sản xuất tiêu dùng trong nước, thúc đẩy xuất khẩu các mặt hàng có lợi thế cạnh tranh, đa dạng hóa đối tác thương mại và thị trường.

Chính phủ cũng thực hiện Chiến lược xây dựng các nguồn lực vật chất thiết yếu đảm bảo các cân đối lớn, đảm bảo an ninh năng lượng, lương thực, an ninh tài chính tiền tệ để tạo dựng độc lập, tự chủ về tiềm lực kinh tế. Đối với an ninh năng lượng, thực hiện chương trình chuyển đổi từ năng lượng sử dụng than, năng lượng hoá thạch sang năng lượng tái tạo và năng lượng xanh.

Cùng với đó, tái cơ cấu, nâng cao năng lực, tính độc lập tự chủ trong đầu tư, cải thiện thể chế đầu tư; đẩy nhanh tiến độ thực hiện, nâng cao hiệu quả các dự án đầu tư; sàng lọc, rà soát kỹ, tăng chất lượng dòng vốn đầu tư nước ngoài; giám sát các hoạt động mua bán sáp nhập để doanh nghiệp Việt không bị nước ngoài thôn tính.

Công nghệ luôn là phương thức và công cụ mạnh nhất để xây dựng một xã hội thịnh vượng vượt trội trong mọi thời đại. Do vậy, Chính phủ thực thi chính sách phát triển mạnh mẽ khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo; ứng dụng công nghệ số, trí tuệ nhân tạo trong quản trị xã hội, sản xuất kinh doanh và đời sống. Thực hiện chính sách tài khoá, tiền tệ đột phá thúc đẩy áp dụng công nghệ tiên tiến, đổi mới sáng tạo nhằm nâng cao năng suất lao động doanh nghiệp và xã hội.

Để nhanh chóng đưa giải pháp công nghệ tới doanh nghiệp trong nước, Chính phủ thực hiện hiệu quả vai trò hỗ trợ liên kết và hướng dẫn kỹ thuật giữa doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp nước ngoài; mời các chuyên gia nước ngoài hỗ trợ giải pháp, xử lý các khó khăn về kỹ thuật cho doanh nghiệp trong nước.

Ngoài ra, phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ và gia công cơ khí để từng bước tự chủ nguồn nguyên vật liệu, linh phụ kiện trong nước. Từ đó, nâng cao giá trị gia tăng, sức cạnh tranh của sản phẩm và doanh nghiệp Việt.

Phát triển công nghiệp hỗ trợ là giải pháp quan trọng để Việt Nam tham gia sâu, trở thành mắt xích không thể thiếu, khẳng định vị thế trong chuỗi cung ứng toàn cầu, hấp thu khoa học, công nghệ, trình độ kỹ thuật, quản trị tiên tiến từ các doanh nghiệp FDI.

Cuối cùng, Chính phủ xây dựng và chia sẻ cơ sở dữ liệu doanh nghiệp trong và ngoài nước để tạo dựng cơ hội và thực thi hợp tác, liên kết nhằm phát triển công nghiệp hỗ trợ, tăng sức mạnh của chuỗi cung ứng trong nước. Đồng thời, Chính phủ có chính sách ưu đãi, đầu tư phát triển các ngành công nghiệp sản xuất nguyên vật liệu gốc, hạn chế nhập nguyên vật liệu về làm gia công, nâng cao năng lực tự chủ.

Cùng với sự chỉ đạo kịp thời của Đảng; điều hành chủ động, linh hoạt, thực hiện đồng thời và hiệu quả các giải pháp của Chính phủ; sự đồng hành trách nhiệm của Quốc hội, Việt Nam sẽ xây dựng thành công nền kinh tế độc lập, tự chủ.

TTXVN/Báo Tin tức
Cấp bách khơi thông nguồn lực để tăng trưởng kinh tế
Cấp bách khơi thông nguồn lực để tăng trưởng kinh tế

Trong bối cảnh nền kinh tế đang gặp rất nhiều khó khăn, thách thức, Chính phủ vẫn quyết tâm giữ vững mục tiêu tăng trưởng 6,5% trong năm nay. Song để đạt được mục tiêu này, tăng trưởng kinh tế quý II cần đạt 6,7%, quý III và quý IV cần đạt tăng trưởng lần lượt là 7,5% và 7,9%. Đây là kịch bản rất thách thức và cần phải khơi thông những động lực nào để chúng ta có thể đạt mục tiêu.

Chia sẻ:

doanh nghiệp - Sản phẩm - Dịch vụ Thông cáo báo chí Rao vặt

Các đơn vị thông tin của TTXVN