Đó là thông tin được đưa ra tại hội thảo “Thực hiện Nghị quyết 19 của Chính phủ về quản lý chuyên ngành đối với hàng hoá xuất nhập khẩu: Kết quả và các vấn đề cần tiếp tục giải quyết” do Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương phối hợp với Cơ quan phát triển quốc tế Hoa Kỳ (USAID) tổ chức ngày 13/6, tại Hà Nội.
Một trong những nội dung trọng tâm, xuyên suốt trong 4 năm (2015 – 2017) của Nghị quyết 19 là vấn đề thủ tục hải quan, cải cách toàn diện các quy định quản lý và kiểm tra chuyên ngành đối với hàng hóa xuất nhập khẩu nhằm cải thiện chỉ số thương mại qua biên giới của Việt Nam. Theo đó, Nghị quyết yêu cầu áp dụng nguyên tắc quản lý rủi ro, chuyển mạnh sang hậu kiểm, phù hợp với thông lệ quốc tế trong hoạt động quản lý, kiểm tra chuyên ngành (KTCN) đối với hàng hóa xuất nhập khẩu.
Mở tờ khai tập hàng nhập khẩu tại Chi cục hải quan cửa khẩu sân bay quốc tế Nội Bài. Ảnh: Phạm Hậu/TTXVN |
Theo ông Phạm Thanh Bình, chuyên gia Dự án quản trị nhà nước nhằm tăng trưởng toàn diện (GIG), với quyết tâm mạnh mẽ của Chính phủ, sự vào cuộc tích cực của các bộ, ngành, địa phương và sự hợp tác chặt chẽ của các hiệp hội, ngành hàng, các doanh nghiệp (DN) trong việc thực hiện Nghị quyết 19, Việt Nam đã đạt được những kết quả đáng khích lệ về cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.
Với mục tiêu giảm tỷ lệ các lô hàng nhập khẩu phải KTCN tại giai đoạn thông quan, ông Bình cho biết, theo đánh giá của Hải quan Hà Nội, thời gian hoàn thành thủ tục thông quan hàng hóa (không phải kiểm dịch) trung bình là 48 giờ, nếu có kiểm dịch động vật là 96 giờ, có kiểm dịch thực vật là 50 giờ. Theo đó, trừ thời gian thực hiện thủ tục kiểm dịch động vật chưa đạt, còn các lĩnh vực quản lý KTCN khác đã đạt chỉ tiêu của Nghị quyết 19.
Tuy nhiên, theo ông Phạm Thanh Bình, có nhiều yêu cầu cải thiện KTCN chưa đạt được như yêu cầu đề ra tại Nghị quyết 19. Cụ thể, về yêu cầu áp dụng quản lý rủi ro trong KTCN, yêu cầu của Nghị quyết 19 là áp dụng nguyên tắc quản lý rủi ro trên cơ sở đánh giá mức độ tuân thủ pháp luật của DN trong KTCN. Đến nay, đã áp dụng trong lĩnh vực quản lý an toàn thực phẩm, còn các lĩnh vực khác về cơ bản là chưa áp dụng. Cùng với đó, yêu cầu áp dụng chế độ DN ưu tiên trong quản lý KTCN đến nay cũng chưa có lĩnh vực quản lý KTCN nào áp dụng.
Cùng với đó, việc thực hiện yêu cầu về áp dụng rộng rãi thông lệ quốc tế chưa có tiến bộ. Cụ thể, chưa có Bộ nào áp dụng việc đẩy mạnh công nhận lẫn nhau trong KTCN. Việc chủ động công nhận chất lượng của các nhãn hiệu, nhà sản xuất nổi tiếng, những hàng hóa đựoc sản xuất tại các nước, khu vực có tiêu chuẩn chất lượng tiên tiến (châu Âu, Mỹ, Nhật…) cũng chưa có bộ nào công bố áp dụng, kể cả trường hợp đã được công bố tại luật.
Theo ông Nguyễn Đình Cung, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương, DN đã được giảm đáng kể chi phí và khoảng 90% thủ tục lâu nay liên quan đến khai báo, làm thủ tục xuất nhập khẩu, nhờ đó thông quan nhanh hơn. Với những điểm "mờ" trong KTCN cần được sửa đổi cho sáng lên. Các DN sợ nhất tính bất định, vì thế, cần giới hạn tối đa những điểm mờ để DN tiên liệu trước được, còn nếu không sẽ có nhiều rủi ro, rủi ro không chỉ về chi phí mà còn là về mặt pháp lý cho DN.
Tại Nghị quyết 19 năm 2018, yêu cầu tiếp tục đặt ra là các chỉ tiêu, nhiệm vụ đề ra từ các Nghị quyết 19 trước chưa thực hoàn thành phải tiếp tục thực hiện. Ví dụ như: áp dụng quản lý rủi ro trong KTCN; áp dụng chế độ DN ưu tiên trong quản lý KTCN; chủ động công nhận chất lượng của các nhãn hiệu, nhà sản xuất nổi tiếng, những hàng hóa đựoc sản xuất tại các nước, khu vực có tiêu chuẩn chất lượng tiên tiến; điện tử hóa thủ tục quản lý KTCN; thay đổi cách thức quản lý, kiểm tra, dán nhãn hiệu suất năng lượng.
Bên cạnh đó, cần chuyển đổi mạnh mẽ cách thức quản lý Nhà nước từ chủ yếu tiền kiểm sang hậu kiểm, gắn liền áp dựng nguyên tắc quản lý rủi ro, đánh giá mức độ tuân thủ pháp luật của tổ chức, cá nhân…
Đánh giá xếp hạng của các tổ chức quốc tế, năm 2017, năng lực cạnh tranh của Việt Nam tăng 5 bậc so với 2016 (từ 60/138 lên 55/137 nền kinh tế), môi trường kinh doanh tăng 14 bậc từ 82 lên 68/190 nền kinh tế, đổi mới sáng tạo cải thiện 12 bậc… Riêng chỉ số Thương mại qua biên giới tuy tăng điểm phần trăm nhưng thứ hạng lại tụt 1 bậc (94/190 nền kinh tế) do nhiều nước khác tăng mạnh hơn. |