Theo Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường, giải pháp thứ nhất là tập trung giải quyết, tháo gỡ ngay những khó khăn cho 4.600 doanh nghiệp cùng các cơ sở sản xuất. Các nhóm chính sách đó là tín dụng, an sinh, chính sách, thuế, chậm nộp tiền sử dụng đất. Tất cả những nhóm chính sách này, các ngành sẽ đồng hành tháo gỡ để tạo điều kiện ngay lập tức cho các doanh nghiệp có thể phục hồi sản xuất nhanh nhất.
Thứ hai, chúng ta phải tập trung khai thác nhanh các thị trường mở trong thời gian tới. Những thị trường, khu vực, quốc gia nào khống chế được dịch COVID-19 thì phải khai thác ngay được thị trường đó.
Giải pháp thứ ba là tất cả hiệp hội ngành hàng, các doanh nghiệp phải rà soát lại chiến lược kinh doanh đảm bảo có nguồn lực, điều kiện tốt nhất để khi Quý III, Quý IV thời cơ đến là bùng nổ để đạt kết quả cao nhất.
Giải pháp thứ 4 là chúng ta tiếp tục tái cơ cấu ngành theo hướng hiện đại, bền vững. Vùng nguyên liệu phải tổ chức xây dựng phát triển bền vững, đủ sức cung ứng nguyên liệu đa dạng. Về khu vực chế biến, chúng ta phải hình thành được những tập đoàn lớn, những tụ điểm lớn, khu công nghiệp lớn về chuyên sản xuất đồ gỗ mang tầm cỡ khu vực và toàn cầu, có thể tham gia chuỗi giá trị toàn cầu.
Trước diễn biến dịch COVID-19 vẫn diễn ra phức tạp tại nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt là tại Hoa Kỳ và các quốc gia châu Âu, điều này sẽ tác động và có ảnh hưởng lớn đến hoạt động thương mại các sản phẩm gỗ và lâm sản, ông Nguyễn Quốc Trị - Tổng Cục trưởng Tổng cục Lâm nghiệp cho biết, Tổng cục và các hiệp hội dự báo giá trị xuất khẩu gỗ và lâm sản năm 2020 sẽ đạt khoảng 11,75 tỷ USD, tăng 3,9% so với 2019, giảm 6,6% so với mục tiêu tăng trưởng đầu năm đề ra.
Cụ thể, dự báo tổng giá trị xuất khẩu các mặt hàng này trong quý II sẽ đạt khoảng 2,18 tỷ USD, giảm 20% so với cùng kỳ năm 2019.
Trong quý III, nếu các quốc gia cơ bản khống chế dịch bệnh, mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh sẽ được ổn định trở lại bình thường. Tổng giá trị xuất khẩu Quý III sẽ đạt khoảng 3,12 tỷ USD, tăng 10% so với cùng kỳ năm 2019 và tăng khoảng 43% so với Quý III.
Quý IV sẽ là thời điểm tăng trưởng cao nhất, dự kiến giá trị xuất khẩu gỗ và lâm sản sẽ đạt mức 3,82 tỷ USD, tăng 15% so với cùng kỳ năm 2019.
Trong Quý I vừa qua, xuất khẩu gỗ và lâm sản có mức tăng trưởng ở mức hai con số, phù hợp với quy luật một số năm gần đây. Tuy nhiên, sang đến tháng 4, do ảnh hưởng của dịch bệnh COVID-19 tác động tại một số quốc gia là thị trường chính của ngành gỗ là Hoa Kỳ, các nước châu Âu, Australia, Canada… nên giá trị xuất khẩu gỗ và lâm sản giảm mạnh, giảm 19,2% so với cùng kỳ 2019 và giảm trên 20% so với tháng 3.
Nguyên nhân là các quốc gia thị trường lớn của ngành gỗ Việt Nam, các đối tác và nhà phân phối đều thông báo cắt giảm, hoãn vô thời hạn hoặc hủy các đơn hàng đã ký. Khảo sát nhanh của các Hiệp hội, Tổng cục Lâm nghiệp tại hơn 200 doanh nghiệp cho thấy, 80% người mua dừng hoặc huỷ đơn hàng; hầu hết các doanh nghiệp thu hẹp quy mô sản xuất, chỉ có 7% doanh nghiệp hoạt động bình thường, 86% doanh nghiệp bị ngừng sản xuất 1 phần và khoảng 7% đã ngừng hoạt động toàn bộ do thiếu đơn hàng hoặc thiếu nguyên vật liệu và vốn đầu tư sản xuất.
Đánh giá về các chính sách hỗ trợ của Nhà nước nhằm giảm khó khăn do dịch như như chính sách tín dụng, ông Nguyễn Quốc Trị cho biết, mức độ thực hiện các chính sách có sự khác nhau giữa các ngân hàng. Do yêu cầu về đảm bảo hiệu quả của nguồn tín dụng, tránh tăng nợ xấu… nên đến nay rất ít các doanh nghiệp ngành gỗ tiếp cận được.
Với chính sách gia hạn thời hạn nộp thuế và tiền thuê đất, đến nay 100% các doanh nghiệp đã được gia hạn nộp thuế VAT và thuế thu nhập doanh nghiệp, 80% doanh nghiệp được gia hạn nộp tiền thuê đất. Tuy nhiên, việc gia hạn thời gian nộp tiền thuế thu nhập doanh nghiệp chỉ thực hiện với những khoản còn thiếu của năm 2019 và khoản thuế tạm nộp của 3 tháng đầu năm 2020. Trong khi hầu hết các doanh nghiệp đã nộp đầy đủ khoản thuế năm 2019.
Hay việc gia hạn thời hạn nộp tiền thuê đất mới chỉ hỗ trợ cho doanh nghiệp một phần rất nhỏ, do chi phí thuê đất chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong cơ cấu vốn sản xuất. Mặt khác, đối với các doanh nghiệp ngành gỗ, chủ yếu thuê mặt nằng, nhà xưởng tại các khu công nghiệp tập trung nên việc trả tiền thuê đất thường được thực hiện từ đầu năm hoặc cho giai đoạn 3-5 năm.
Nói về các chính sách hỗ trợ, ông Vũ Hải Bằng, Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty Woodsland cho biết, chính sách hỗ trợ cho người lao động còn nhiều vấn đề và bất hợp lý. Chính sách này chỉ hỗ trợ nộp chậm lại nhưng điều kiện được chậm rất khó. Điển hình như điều kiện doanh nghiệp giảm tổng tài sản 50% - như vậy chỉ có doanh nghiệp phá sản; hay doanh nghiệp phải có 50% lao động mất việc làm mới được hỗ trợ bảo hiểm xã hội trong khi Chính phủ, các bộ ngành khuyến khích doanh nghiệp hỗ trợ người lao động ở lại, đi làm luân phiên. Như vậy, chính sách lại đi ngược lại với tinh thần chỉ đạo.
Bên cạnh đó, người lao động đi làm 15-16 ngày/tháng nhưng doanh nghiệp cũng phải đóng toàn bộ bảo hiểm trong tháng. Điều này không những không hỗ trợ mà khiến doanh nghiệp còn khó khăn hơn. Thậm chí còn căng thẳng hơn khi doanh nghiệp đóng chậm bảo hiểm cho người lao động thì sẽ không được hưởng các chính sách ưu tiên khác, ông Vũ Hải Bằng nói.
Đồng tình với ông Vũ Hải Bằng, ông Đặng Văn Tuấn, Phó Tổng giám đốc Công ty cổ phần Lâm sản Nam Định kiến nghị các bộ, ngành xem xét lại yếu tố có 50% lao động nghỉ việc mới hỗ trợ. Đại dịch đã khiến công ty phải cắt giảm 40% lao động còn lại làm việc luân phiên.
Trước vướng mắc trên, các hiệp hội đề nghị Chính phủ quan tâm, xem xét bổ sung chính sách mới để hỗ trợ doanh nghiệp như gia hạn thời hạn nộp bảo hiểm xã hội, miễn nộp bảo hiểm xã hội cho người lao động trong thời gian nghỉ việc do dịch bệnh, hoàn thuế VAT ngay sau khi xuất khẩu hàng hóa; gia hạn thời gian nộp bảo hiểm thất nghiệp, có thêm gói tín dụng hỗ trợ lãi suất… để hỗ trợ thêm cho doanh nghiệp, người lao động để phục hồi và thúc đẩy sản xuất.
Với những kiến nghị của doanh nghiệp về các chính sách hỗ trợ cho doanh nghiệp, Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường cho biết, Bộ Nông nghiệp phối hợp các bộ, ngành liên quan tiếp tục tháo gỡ những điểm bất hợp lý. Các đơn vị sẽ tổng hợp báo cáo để kiến nghị Thủ tướng Chính phủ, các ngành để sớm điều chỉnh cho phù hợp với tình hình thực tiễn của các doanh nghiệp.